BƯỚC NGOẶC TOÀN CẦU

Làm Thế Nào Tránh Cuộc Chiến Tranh Lạnh Mới Trong Kỷ Nguyên Đa Cực[1]


Olaf Scholz
January/February, 2023
 
 
 

Thủ Tướng Đức Olaf Scholz trong cuộc phỏng vấn truyền hình tại Bali, Indonesia, November 2022

Kay Nietfeld / Getty Images

Thế giới đang đối mặt với một Zeitenwende[2]: một sự chuyển đổi tạo dựng kỷ nguyên mới. Cuộc chiến tranh xâm lược của Nga chống Ukraine đã đặt dấu chấm hết cho một kỷ nguyên. Các cường quốc mới đã xuất hiện hoặc tái xuất hiện, bao gồm cả một Trung Quốc hùng mạnh về kinh tế và quyết đoán về chính trị. Trong thế giới đa cực mới này, các quốc gia và mô hình chính phủ khác biệt đang cạnh tranh quyền lực và ảnh hưởng.

Về phần mình, Đức đang làm mọi thứ có thể để bảo vệ và thúc đẩy một trật tự quốc tế dựa trên các nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc. Nền dân chủ, an ninh và thịnh vượng của nó phụ thuộc vào quyền lực kết hợp với các quy tắc chung. Đó là lý do tại sao người Đức có ý định trở thành người bảo đảm an ninh châu Âu mà các đồng minh mong đợi ở chúng tôi, người xây dựng cầu nối trong Liên minh châu Âu và là người ủng hộ các giải pháp đa phương cho các vấn đề toàn cầu. Đây là cách duy nhất để Đức điều hướng thành công những rạn nứt địa chính trị của thời đại chúng ta.

Zeitenwende vượt ra ngoài cuộc chiến ở Ukraine và vượt ra ngoài vấn đề an ninh châu Âu. Câu hỏi trọng tâm là: Làm thế nào chúng ta, với tư cách là người dân châu Âu và Liên minh châu Âu, có thể duy trì tác nhân độc lập trong một thế giới ngày càng đa cực?

Đức và châu Âu có thể giúp bảo vệ trật tự quốc tế dựa trên luật lệ mà không khuất phục trước quan điểm định mệnh rằng thế giới một lần nữa sẽ bị chia cắt thành các khối cạnh tranh nhau. Lịch sử của đất nước tôi trao cho nó một trách nhiệm đặc biệt là chống lại các thế lực của chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa độc tài và chủ nghĩa đế quốc. Đồng thời, kinh nghiệm bị chia đôi trong một cuộc đấu tranh về ý thức hệ và địa chính trị cho chúng tôi đánh giá đặc biệt về những nguy cơ của một cuộc chiến tranh lạnh mới.

KẾT THÚC MỘT KỶ NGUYÊN

Đối với phần lớn thế giới, ba thập kỷ kể từ khi Bức màn sắt sụp đổ là thời kỳ hòa bình và thịnh vượng tương đối. Những tiến bộ công nghệ đã tạo ra một mức độ kết nối và hợp tác chưa từng có. Mậu dịch quốc tế ngày càng phát triển, chuỗi sản xuất và giá trị mở rộng toàn cầu cũng như sự trao đổi con người và kiến thức vô song xuyên biên giới đã đưa hơn một tỷ người thoát khỏi đói nghèo. Quan trọng nhất, những công dân dũng cảm trên khắp thế giới đã quét sạch các chế độ độc tài và độc đảng. Khao khát tự do, nhân phẩm và dân chủ của họ đã thay đổi tiến trình lịch sử. Hai cuộc chiến tranh thế giới tàn khốc và rất nhiều đau khổ—phần lớn do đất nước tôi gây ra—tiếp theo sau hơn bốn thập kỷ căng thẳng và đối đầu dưới bóng tối của sự hủy diệt hạt nhân có thể xảy ra. Nhưng đến những năm 1990, có vẻ như một trật tự thế giới kiên cường hơn cuối cùng đã hình thành.

Người Đức, đặc biệt, có thể đếm phước lành của họ. Vào tháng 11 năm 1989, bức tường Berlin bị phá bỏ bởi những công dân dũng cảm Đông Đức. Chỉ 11 tháng sau, đất nước được thống nhất nhờ các chính trị gia có tầm nhìn xa và sự hỗ trợ của các đối tác ở cả phương Tây và phương Đông. Cuối cùng, “những gì thuộc về nhau có thể cùng nhau phát triển,”[3] như cựu Thủ tướng Đức Willy Brandt đã nói ngay sau khi bức tường sụp đổ.

Những từ đó không chỉ áp dụng cho Đức mà còn cho toàn bộ châu Âu. Các cựu thành viên của Hiệp ước Warsaw đã chọn trở thành đồng minh trong Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) và thành viên của EU. “Châu Âu toàn vẹn và tự do,” theo cách nói của George H. W. Bush, tổng thống Hoa Kỳ vào thời điểm đó, dường như không còn là một hy vọng vô căn cứ nữa. Trong kỷ nguyên mới này, có vẻ như Nga sẽ trở thành đối tác của phương Tây hơn là đối thủ như Liên Xô trước đây. Kết quả là hầu hết các nước châu Âu đã thu hẹp quân đội và cắt giảm ngân sách quốc phòng. Đối với Đức, lý do rất đơn giản: Tại sao phải duy trì một lực lượng phòng thủ lớn với khoảng 500.000 binh sĩ khi tất cả các nước láng giềng của chúng ta dường như là bạn bè hoặc đối tác?

Trọng tâm của chính sách an ninh và quốc phòng của chúng ta nhanh chóng chuyển sang các mối đe dọa cấp bách khác. Các cuộc chiến tranh Balkan và hậu quả của vụ tấn công ngày 11/9 năm 2001, bao gồm cả các cuộc chiến tranh ở Afghanistan và Iraq, đã nâng cao tầm quan trọng của việc quản lý khủng hoảng toàn cầu và khu vực. Tuy nhiên, sự đoàn kết trong NATO vẫn còn nguyên vẹn: các cuộc tấn công ngày 11/9 đã dẫn đến quyết định đầu tiên kích hoạt Điều 5, điều khoản phòng thủ chung của Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương, và trong hai thập kỷ, các lực lượng NATO đã kề vai sát cánh chiến đấu với chủ nghĩa khủng bố ở Afghanistan.

Các cộng đồng doanh nghiệp của Đức đã rút ra kết luận của riêng họ từ tiến trình lịch sử mới. Bức màn sắt sụp đổ và một nền kinh tế toàn cầu hội nhập hơn bao giờ hết đã mở ra những cơ hội và thị trường mới, đặc biệt là ở các quốc gia thuộc khối Đông Âu cũ mà còn ở các quốc gia khác có nền kinh tế mới nổi, đặc biệt là Trung Quốc. Nga, với nguồn năng lượng dồi dào và các nguyên liệu thô khác, đã chứng tỏ là một nhà cung cấp đáng tin cậy trong Chiến tranh Lạnh, và ít nhất là lúc đầu, có vẻ hợp lý khi mở rộng mối quan hệ đối tác đầy hứa hẹn đó trong thời bình.

Tuy nhiên, giới lãnh đạo Nga đã trải qua sự tan rã của Liên Xô cũ và Hiệp ước Warsaw đã đưa ra những kết luận khác hẳn với kết luận của các nhà lãnh đạo ở Berlin và các thủ đô châu Âu khác. Thay vì coi việc lật đổ chế độ cộng sản một cách hòa bình là cơ hội để có thêm tự do và dân chủ, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã gọi đó là “thảm họa địa chính trị lớn nhất của thế kỷ XX”. Những bất ổn về kinh tế và chính trị ở các khu vực thuộc không gian hậu Xô Viết vào những năm 1990 chỉ làm trầm trọng thêm cảm giác mất mát và đau khổ mà nhiều công dân Nga cho đến ngày nay vẫn kết hợp liên đới đến sự sụp đổ của Liên Xô.

Chính trong môi trường đó, chủ nghĩa độc tài và tham vọng đế quốc bắt đầu trỗi dậy. Năm 2007, Putin đã có một bài phát biểu gây hấn tại Hội nghị An ninh Munich, chế giễu trật tự quốc tế dựa trên luật lệ chỉ là một công cụ thống trị của Mỹ. Năm sau, Nga phát động chiến tranh chống Georgia. Vào năm 2014, Nga đã chiếm đóng và sáp nhập Crimea, đồng thời đưa lực lượng của mình vào các khu vực của vùng Donbas ở miền đông Ukraine, vi phạm trực tiếp luật pháp quốc tế và các cam kết trong hiệp ước của chính Moscow. Những năm sau đó chứng kiến Điện Kremlin cắt giảm các hiệp ước kiểm soát vũ khí và mở rộng khả năng quân sự, đầu độc và sát hại những người bất đồng chính kiến Nga, đàn áp xã hội dân sự và thực hiện can thiệp quân sự tàn bạo để hỗ trợ chế độ Assad ở Syria. Từng bước một, nước Nga của Putin đã chọn một con đường đưa nước này tiến xa hơn khỏi châu Âu và xa hơn khỏi một trật tự hòa bình, hợp tác.

Quân nhân Đức, thành viên NATO thuộc lực lượng Phản ứng tại Baumholder, Germany, November 2022

Wolfgang Rattay / Reuters

ĐẾ CHẾ TRỞ LẠI

Trong tám năm sau khi sáp nhập bất hợp pháp Crimea và bùng nổ xung đột ở miền đông Ukraine, Đức và các đối tác châu Âu và quốc tế trong G-7 đã tập trung vào việc bảo vệ chủ quyền và độc lập chính trị của Ukraine, ngăn chặn sự leo thang hơn nữa của Nga, khôi phục và giữ gìn hòa bình ở châu Âu. Cách tiếp cận được lựa chọn là sự kết hợp giữa áp lực chính trị và kinh tế cùng với các biện pháp hạn chế đối với Nga với đối thoại. Cùng với Pháp, Đức tham gia vào cái gọi là Dạng Thức Normandy dẫn đến các thỏa thuận Minsk và quy trình Minsk tương ứng, kêu gọi Nga và Ukraine cam kết ngừng bắn và thực hiện một số bước khác. Bất chấp những thất bại và sự thiếu tin tưởng giữa Moscow và Kiev, Đức và Pháp vẫn tiếp tục quá trình này. Nhưng một nước Nga theo chủ nghĩa xét lại đã khiến ngoại giao không thể thành công.

Cuộc tấn công tàn bạo của Nga vào Ukraine vào tháng 2 năm 2022 sau đó đã mở ra một thực tế mới về cơ bản: chủ nghĩa đế quốc đã quay trở lại châu Âu. Nga đang sử dụng một số phương pháp quân sự khủng khiếp nhất của thế kỷ 20 và gây ra đau khổ không kể xiết ở Ukraine. Hàng chục nghìn binh sĩ và dân thường Ukraine đã thiệt mạng; nhiều người khác đã bị thương hoặc chấn thương. Hàng triệu công dân Ucraina đã phải rời bỏ nhà cửa, tìm nơi ẩn náu ở Ba Lan và các nước châu Âu khác; một triệu người trong số họ đã đến Đức. Pháo binh, hỏa tiễn và bom của Nga đã biến nhà cửa, trường học và bệnh viện của Ukraine thành đống đổ nát. Mariupol, Irpin, Kherson, Izyum: những nơi này sẽ mãi mãi nhắc nhở thế giới về tội ác của Nga—và thủ phạm phải bị đưa ra trước công lý.

Nhưng tác động của cuộc chiến tranh của Nga vượt ra ngoài Ukraine. Khi Putin ra lệnh tấn công, ông ta đã phá vỡ cấu trúc hòa bình của châu Âu và quốc tế đã mất hàng chục năm để xây dựng. Dưới sự lãnh đạo của Putin, Nga đã bất chấp cả những nguyên tắc cơ bản nhất của luật pháp quốc tế được ghi trong Hiến chương Liên hợp quốc: từ bỏ việc sử dụng vũ lực như một phương tiện của chính sách quốc tế và cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của tất cả các bên. Hành động như một cường quốc đế quốc, Nga hiện đang tìm cách vẽ lại biên giới bằng vũ lực và một lần nữa chia thế giới thành các khối và phạm vi ảnh hưởng.

MỘT CHÂU ÂU MẠNH MẼ HƠN

Thế giới không được để Putin làm theo ý mình; Chủ nghĩa đế quốc phục thù của Nga phải bị ngăn chặn. Vai trò quan trọng đối với Đức vào thời điểm này là trở thành một trong những nhà cung cấp an ninh chính ở châu Âu bằng cách đầu tư quân đội của chúng ta, củng cố ngành công nghiệp quốc phòng châu Âu, tăng cường sự hiện diện quân sự của chúng ta ở sườn phía đông của NATO, đồng thời huấn luyện và trang bị vũ khí cho lực lượng quân sự Ukraine.

Vai trò mới của Đức sẽ đòi hỏi một nền văn hóa chiến lược mới, và chiến lược an ninh quốc gia mà chính phủ tôi sẽ thông qua trong vài tháng tới sẽ phản ánh thực tế này. Trong ba thập kỷ qua, các quyết định liên quan đến an ninh của Đức và trang thiết bị của lực lượng vũ trang nước này đã được đưa ra trong bối cảnh một châu Âu hòa bình. Bây giờ, câu hỏi định hướng sẽ là những mối đe dọa nào mà chúng ta và các đồng minh của chúng ta phải đối đầu ở châu Âu, ngay tức khắc chính là Nga. Chúng bao gồm tiềm năng các cuộc tấn công vào lãnh thổ của đồng minh, chiến tranh mạng và thậm chí cả khả năng xảy ra một cuộc tấn công hạt nhân từ xa, điều mà Putin đã trắng trợn đe dọa.

Quan hệ đối tác xuyên Đại Tây Dương đang và vẫn còn quan trọng để đối mặt với những thách thức này. Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden và chính phủ của ông xứng đáng được ca ngợi vì đã xây dựng và đầu tư vào các mối quan hệ đối tác và liên minh mạnh mẽ trên toàn cầu. Nhưng một quan hệ đối tác xuyên Đại Tây Dương cân bằng và bền vững cũng đòi hỏi Đức và châu Âu đóng vai trò tích cực. Một trong những quyết định đầu tiên mà chính phủ của tôi đưa ra sau cuộc tấn công của Nga vào Ukraine là chỉ định một quỹ đặc biệt trị giá khoảng 100 tỷ đô la để trang bị tốt hơn cho các lực lượng vũ trang của chúng tôi, Bundeswehr. Chúng tôi thậm chí đã thay đổi hiến pháp của mình để thành lập quỹ này. Quyết định này đánh dấu sự thay đổi lớn nhất trong chính sách an ninh của Đức kể từ khi thành lập Bundeswehr vào năm 1955. Các binh sĩ của chúng ta sẽ nhận được sự hỗ trợ chính trị, vật chất và năng lực mà họ cần để bảo vệ đất nước và các đồng minh của chúng ta. Mục tiêu là một Bundeswehr mà chúng tôi và các đồng minh của chúng tôi có thể dựa vào. Để đạt được điều đó, Đức sẽ đầu tư hai phần trăm tổng sản phẩm quốc nội (2% GDP) của chúng tôi vào quốc phòng.

Những thay đổi này phản ánh một tư duy mới trong xã hội Đức. Ngày nay, phần lớn người Đức đồng ý rằng đất nước của họ cần một quân đội có khả năng và sẵn sàng để ngăn chặn kẻ thù và bảo vệ chính họ cũng như các đồng minh. Người Đức sát cánh với người Ukraine khi họ bảo vệ đất nước của họ trước sự xâm lược của Nga. Từ năm 2014 đến năm 2020, Đức là nguồn đầu tư tư nhân và hỗ trợ chính phủ lớn nhất của Ukraine cộng lại. Và kể từ khi cuộc xâm lược của Nga bắt đầu, Đức đã tăng cường hỗ trợ tài chính và nhân đạo cho Ukraine, đồng thời giúp điều phối phản ứng quốc tế trong khi giữ chức chủ tịch G-7.

Từ Zeitenwende cũng khiến chính phủ của tôi xem xét lại nguyên tắc chính sách xuất khẩu vũ khí đã tồn tại hàng chục năm của Đức. Hôm nay, lần đầu tiên trong lịch sử gần đây của nước Đức, chúng tôi đang cung cấp vũ khí cho cuộc chiến giữa hai quốc gia. Trong cuộc trao đổi của tôi với Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky, tôi đã nói rõ một điều: Đức sẽ duy trì nỗ lực hỗ trợ Ukraine trong thời gian cần thiết. Những gì Ukraine cần nhất hiện nay là các hệ thống pháo binh và phòng không, và đó chính xác là những gì Đức đang cung cấp, với sự phối hợp chặt chẽ với các đồng minh và đối tác của chúng tôi. Sự hỗ trợ của Đức cho Ukraine cũng bao gồm vũ khí chống tăng, xe bọc thép chở quân, súng và tên lửa phòng không, và hệ thống radar phản pháo. Một nhiệm vụ mới của EU sẽ cung cấp huấn luyện cho tối đa 15.000 quân Ukraine, bao gồm đến 5.000—toàn bộ lữ đoàn—ở Đức. Trong khi đó, Cộng hòa Séc, Hy Lạp, Slovakia và Slovenia đã chuyển giao hoặc đã cam kết chuyển giao khoảng 100 xe tăng chiến đấu chủ lực thời Liên Xô cho Ukraine; Đến lượt mình, Đức sẽ cung cấp cho các quốc gia đó xe tăng Đức đã được tân trang lại. Bằng cách này, Ukraine đang nhận được những chiếc xe tăng mà lực lượng Ukraine biết rõ và có kinh nghiệm sử dụng, đồng thời có thể dễ dàng tích hợp vào các kế hoạch bảo trì và hậu cần hiện có của Ukraine.

Các hành động của NATO không được dẫn đến một cuộc đối đầu trực tiếp với Nga, nhưng liên minh này phải ngăn chặn một cách đáng tin cậy sự xâm lược của Nga. Để đạt được mục tiêu đó, Đức đã tăng cường đáng kể sự hiện diện của mình ở sườn phía đông của NATO, củng cố nhóm tác chiến NATO do Đức dẫn đầu ở Litva và chỉ định một lữ đoàn để đảm bảo an ninh cho quốc gia đó. Đức cũng đang đóng góp binh lính cho nhóm chiến đấu của NATO ở Slovakia, và lực lượng không quân Đức đang giúp giám sát và bảo đảm không phận ở Estonia và Ba Lan. Trong khi đó, hải quân Đức đã tham gia vào các hoạt động phòng thủ và răn đe của NATO ở Biển Baltic. Đức cũng sẽ đóng góp một sư đoàn thiết giáp, cũng như các khí tài không quân và hải quân quan trọng (tất cả đều ở trạng thái sẵn sàng cao) cho Mô hình Lực lượng Mới của NATO, được thiết kế để cải thiện khả năng phản ứng nhanh chóng của liên minh trước mọi tình huống bất ngờ. Và Đức sẽ tiếp tục duy trì cam kết của mình đối với các thỏa thuận chia sẻ hạt nhân của NATO, bao gồm cả việc mua máy bay chiến đấu F-35 có khả năng kép. Thông điệp của chúng tôi tới Mátxcơva rất rõ ràng: chúng tôi quyết tâm bảo vệ từng tấc đất lãnh thổ của NATO trước mọi hành vi gây hấn có thể xảy ra. Chúng tôi sẽ tôn trọng long trọng cam kết của NATO rằng một cuộc tấn công vào bất kỳ một đồng minh nào sẽ được coi là một cuộc tấn công vào toàn bộ liên minh. Chúng tôi cũng đã nói rõ với Nga rằng những phát ngôn gần đây của nước này liên quan đến vũ khí hạt nhân là liều lĩnh và vô trách nhiệm. Khi tôi đến thăm Bắc Kinh vào tháng 11, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và tôi nhất trí rằng việc đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân là không thể chấp nhận được và việc sử dụng những vũ khí khủng khiếp như vậy sẽ vượt qua ranh giới đỏ mà loài người đã vạch ra một cách đúng đắn. Putin nên đánh dấu những từ này.

Trong số nhiều tính toán sai lầm mà Putin đã mắc phải là việc đặt cược rằng cuộc xâm lược Ukraine sẽ làm căng thẳng quan hệ giữa các đối thủ của ông. Trên thực tế, điều ngược lại đã xảy ra: EU và liên minh xuyên Đại Tây Dương đang mạnh hơn bao giờ hết. Điều này thể hiện rõ ràng nhất trong các biện pháp trừng phạt kinh tế chưa từng có mà Nga đang phải đối mặt. Ngay từ đầu cuộc chiến, rõ ràng là các biện pháp trừng phạt này sẽ phải được áp dụng trong một thời gian dài, vì hiệu quả của chúng tăng lên sau mỗi tuần trôi qua. Putin cần hiểu rằng sẽ không một biện pháp trừng phạt nào được dỡ bỏ nếu Nga cố gắng áp đặt các điều khoản của một thỏa thuận hòa bình.

Tất cả các nhà lãnh đạo của các nước G-7 đều ca ngợi sự sẵn sàng của Zelensky cho một nền hòa bình công bằng, tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của Ukraine, đồng thời bảo vệ khả năng tự vệ của Ukraine trong tương lai. Phối hợp với các đối tác của chúng tôi, Đức sẵn sàng đạt được các thỏa thuận để duy trì an ninh của Ukraine như một phần của giải pháp hòa bình tiềm năng sau chiến tranh. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ không chấp nhận việc sáp nhập bất hợp pháp lãnh thổ Ukraine, được che đậy một cách vụng về bằng các cuộc trưng cầu dân ý giả tạo. Để kết thúc cuộc chiến này, Nga phải rút quân.

TỐT CHO KHÍ HẬU, TỆ CHO NGA

Cuộc chiến của Nga không chỉ thống nhất EU, NATO và G-7 để chống lại sự xâm lược của ông ta; nó cũng đã xúc tác cho những thay đổi trong chính sách kinh tế và năng lượng sẽ gây tổn hại cho Nga về lâu dài—và thúc đẩy quá trình chuyển đổi quan trọng sang năng lượng sạch đang được tiến hành. Ngay sau khi nhậm chức thủ tướng Đức vào tháng 12 năm 2021, tôi đã hỏi các cố vấn của mình rằng liệu chúng ta đã có kế hoạch sẵn sàng nếu Nga quyết định ngừng vận chuyển khí đốt tới châu Âu hay chưa. Câu trả lời là không, mặc dù chúng tôi đã trở nên phụ thuộc một cách nguy hiểm vào việc cung cấp khí đốt của Nga.

Chúng tôi ngay lập tức bắt đầu chuẩn bị cho tình huống xấu nhất. Trong những ngày trước khi Nga tiến hành cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraine, Đức đã đình chỉ chứng nhận đường ống Nord Stream 2, vốn được thiết lập để tăng đáng kể nguồn cung cấp khí đốt của Nga cho châu Âu. Vào tháng 2 năm 2022, các kế hoạch nhập khẩu khí tự nhiên hóa lỏng từ thị trường toàn cầu bên ngoài châu Âu đã sẵn sàng—và trong những tháng tới, các bến cảng LNG nổi đầu tiên sẽ đi vào hoạt động trên bờ biển Đức.

Kịch bản xấu nhất sớm trở thành hiện thực khi Putin quyết định vũ khí hóa năng lượng bằng cách cắt nguồn cung cấp cho Đức và phần còn lại của châu Âu. Nhưng Đức hiện đã loại bỏ hoàn toàn việc nhập khẩu than của Nga và việc nhập khẩu dầu của Nga của EU sẽ sớm chấm dứt. Chúng tôi đã học được bài học của mình: An ninh của Châu Âu dựa vào việc đa dạng hóa các nhà cung cấp và tuyến đường năng lượng cũng như đầu tư vào sự độc lập về năng lượng. Vào tháng 9, vụ phá hoại các đường ống Nord Stream đã chứng tỏ rõ thông điệp đó.

Để giải quyết bất kỳ tình trạng thiếu năng lượng tiềm ẩn nào ở Đức và Châu Âu nói chung, chính phủ của tôi đang tạm thời đưa các nhà máy điện chạy bằng than trở lại lưới điện và cho phép các nhà máy điện hạt nhân của Đức hoạt động lâu hơn so với kế hoạch ban đầu. Chúng tôi cũng đã yêu cầu các cơ sở lưu trữ khí đốt thuộc sở hữu tư nhân đáp ứng mức độ nạp tối thiểu ngày càng cao hơn. Hôm nay, các cơ sở của chúng tôi đã hoàn toàn đầy đủ, trong khi mức độ vào thời điểm này năm ngoái thấp bất thường. Đây là cơ sở tốt để Đức và châu Âu vượt qua mùa đông mà không bị thiếu hụt khí đốt.

Cuộc chiến của Nga cho chúng ta thấy rằng việc đạt được những mục tiêu đầy tham vọng này cũng là cần thiết để bảo vệ an ninh và độc lập của chúng ta, cũng như an ninh và độc lập của châu Âu. Việc tránh xa các nguồn năng lượng hóa thạch sẽ làm tăng nhu cầu về điện và hydro xanh, và Đức đang chuẩn bị cho kết quả đó bằng cách đẩy nhanh quá trình chuyển đổi sang năng lượng tái tạo như năng lượng gió và mặt trời. Mục tiêu của chúng tôi rất rõ ràng: đến năm 2030, ít nhất 80% lượng điện mà người Đức sử dụng sẽ được tạo ra từ năng lượng tái tạo và đến năm 2045, Đức sẽ đạt được mức phát thải khí nhà kính bằng không, hay còn gọi là “trung lập về khí hậu”.

CƠN ÁC MỘNG TỒI TỆ NHẤT CỦA PUTIN

Putin muốn chia châu Âu thành các vùng ảnh hưởng và chia thế giới thành các khối gồm các cường quốc và các nước chư hầu. Thay vì đó, cuộc chiến của ông chỉ phục vụ thúc đẩy EU. Tại Hội đồng Châu Âu vào tháng 6 năm 2022, EU đã trao cho Ukraine và Moldova quy chế “các quốc gia ứng cử viên” và tái khẳng định rằng tương lai của Gruzia phụ thuộc vào Châu Âu. Chúng tôi cũng nhất trí rằng việc gia nhập EU của tất cả sáu quốc gia phía tây Balkan cuối cùng phải trở thành hiện thực, một mục tiêu mà cá nhân tôi cam kết thực hiện. Đó là lý do tại sao tôi đã hồi sinh cái gọi là Tiến trình Berlin cho Tây Balkan, dự định tăng cường hợp tác trong khu vực, đưa các quốc gia và công dân của họ xích lại gần nhau hơn và chuẩn bị cho họ hội nhập EU.

Điều quan trọng là phải thừa nhận rằng việc mở rộng EU và hội nhập các thành viên mới sẽ khó khăn; không có gì tệ hơn là mang lại cho hàng triệu người hy vọng hão huyền. Nhưng con đường đang rộng mở và mục tiêu rất rõ ràng: một EU sẽ bao gồm hơn 500 triệu công dân tự do, đại diện cho thị trường nội địa lớn nhất thế giới, sẽ đặt ra các tiêu chuẩn toàn cầu về thương mại, tăng trưởng, biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường và nơi sẽ tổ chức các viện nghiên cứu hàng đầu và các doanh nghiệp đổi mới—một gia đình gồm các nền dân chủ ổn định được hưởng phúc lợi xã hội và cơ sở hạ tầng công cộng vô song.

Khi EU tiến tới mục tiêu đó, các đối thủ của nó sẽ tiếp tục cố gắng chia rẽ các thành viên. Putin chưa bao giờ chấp nhận EU như một tác nhân chính trị. Xét cho cùng, EU - một liên minh gồm các quốc gia tự do, có chủ quyền, dân chủ dựa trên pháp quyền - là phản đề của chế độ ăn cắp vặt đế quốc và chuyên quyền của ông ta.

Putin và những người khác sẽ cố gắng biến các hệ thống dân chủ, cởi mở của chính chúng ta chống lại chúng ta, thông qua các chiến dịch đưa thông tin sai lệch và bán rao ảnh hưởng. Công dân châu Âu có nhiều quan điểm khác nhau, và các nhà lãnh đạo chính trị châu Âu thảo luận và đôi khi tranh luận về con đường đúng đắn phía trước, đặc biệt là trong các thách thức địa chính trị và kinh tế. Nhưng những đặc điểm này của các xã hội mở của chúng ta là các tính năng, không phải lỗi; chúng là bản chất của việc ra quyết định dân chủ. Tuy nhiên, mục tiêu của chúng ta ngày nay là xích lại gần nhau trong những lĩnh vực quan trọng mà ở đó sự mất đoàn kết sẽ khiến châu Âu dễ bị tổn thương hơn trước sự can thiệp của nước ngoài. Điều cốt lõi đối với sứ mệnh đó là sự hợp tác ngày càng chặt chẽ hơn giữa Đức và Pháp, hai nước có chung tầm nhìn về một EU hùng mạnh và có chủ quyền.

Minh họa của Nicolás Ortega



Rộng hơn, EU phải vượt qua những xung đột cũ và tìm giải pháp mới. Di cư châu Âu và chính sách tài khóa là những trường hợp điển hình. Mọi người sẽ tiếp tục đến châu Âu và châu Âu cần người nhập cư, vì vậy EU phải đưa ra một chiến lược nhập cư thực tế và phù hợp với các giá trị của mình. Điều này có nghĩa là giảm di cư bất hợp pháp và đồng thời củng cố các con đường hợp pháp đến châu Âu, đặc biệt là đối với những công nhân lành nghề mà thị trường lao động của chúng ta cần. Về chính sách tài khóa, liên minh đã thành lập một quỹ phục hồi và khả năng phục hồi cũng sẽ giúp giải quyết những thách thức hiện tại do giá năng lượng cao gây ra. Liên minh cũng phải loại bỏ các chiến thuật ngăn chặn ích kỷ trong quá trình ra quyết định của mình bằng cách loại bỏ khả năng của từng quốc gia trong việc phủ quyết các biện pháp nhất định. Khi EU mở rộng và trở thành một tác nhân địa chính trị, việc ra quyết định nhanh chóng sẽ là chìa khóa thành công. Vì lý do đó, Đức đã đề xuất dần dần mở rộng thông lệ đưa ra quyết định bằng cách bỏ phiếu theo đa số đối với các lĩnh vực hiện đang tuân theo quy tắc nhất trí, chẳng hạn như chính sách đối ngoại và thuế của EU.

Châu Âu cũng phải tiếp tục đảm nhận trách nhiệm lớn hơn đối với an ninh của chính mình và cần một cách tiếp cận phối hợp và hợp nhất để xây dựng khả năng phòng thủ của mình. Ví dụ, quân đội của các quốc gia thành viên EU vận hành quá nhiều hệ thống vũ khí khác nhau, điều này tạo ra sự kém hiệu quả về mặt thực tế và kinh tế. Để giải quyết những vấn đề này, EU phải thay đổi các thủ tục quan liêu nội bộ, điều này sẽ đòi hỏi các quyết định chính trị dũng cảm; Các quốc gia thành viên EU, bao gồm cả Đức, sẽ phải thay đổi các chính sách và quy định quốc gia của họ về việc xuất khẩu các hệ thống quân sự được sản xuất chung.

Một lĩnh vực mà châu Âu cần khẩn trương đạt được tiến bộ là quốc phòng trong lĩnh vực hàng không và vũ trụ. Đó là lý do tại sao Đức sẽ tăng cường khả năng phòng không trong những năm tới, như một phần của khuôn khổ NATO, bằng cách mua thêm các khả năng. Tôi đã mở sáng kiến này cho các nước láng giềng châu Âu của chúng ta, và kết quả là Sáng kiến Lá chắn bầu trời châu Âu, mà 14 quốc gia châu Âu khác đã tham gia vào tháng 10 năm ngoái. Hệ thống phòng không chung ở châu Âu sẽ hiệu quả và tiết kiệm chi phí hơn so với việc tất cả chúng ta thực hiện một mình, và nó đưa ra một ví dụ nổi bật về ý nghĩa của việc củng cố trụ cột châu Âu trong NATO.

NATO là người bảo đảm cuối cùng cho an ninh châu Âu-Đại Tây Dương, và sức mạnh của nó sẽ chỉ tăng lên khi có thêm hai nền dân chủ thịnh vượng là Phần Lan và Thụy Điển làm thành viên. Nhưng NATO cũng trở nên mạnh mẽ hơn khi các thành viên châu Âu một cách độc lập thực hiện các bước hướng tới khả năng tương hợp cao hơn giữa các cấu trúc phòng thủ của họ, trong khuôn khổ của EU.

THÁCH THỨC TRUNG QUỐC—VÀ HƠN THẾ NỮA

Cuộc chiến tranh xâm lược của Nga có thể đã kích hoạt Zeitenwende, nhưng sự chuyển đổi kiến tạo diễn ra sâu hơn nhiều. Lịch sử đã không kết thúc, như một số dự đoán, với Chiến tranh Lạnh. Tuy nhiên, lịch sử cũng không lặp lại. Nhiều người cho rằng chúng ta đang trên bờ vực của kỷ nguyên lưỡng cực trong trật tự quốc tế. Họ nhìn thấy bình minh của một cuộc chiến tranh lạnh mới đang đến gần, một cuộc chiến sẽ khiến Hoa Kỳ chống lại Trung Quốc.

Tôi không đăng ký để nhìn thấy việc này. Thay vào đó, tôi tin rằng những gì chúng ta đang chứng kiến là sự kết thúc của một giai đoạn toàn cầu hóa đặc biệt, một sự thay đổi lịch sử được thúc đẩy bởi, nhưng không hoàn toàn là kết quả của những cú sốc bên ngoài như đại dịch COVID-19 và cuộc chiến của Nga ở Ukraine. Trong giai đoạn đặc biệt đó, Bắc Mỹ và Châu Âu đã trải qua 30 năm tăng trưởng ổn định, tỷ lệ việc làm cao và lạm phát thấp, và Hoa Kỳ đã trở thành cường quốc quyết định của thế giới—vai trò mà Hoa Kỳ sẽ duy trì trong thế kỷ 21.

Sự trỗi dậy của Trung Quốc không đảm bảo cô lập Bắc Kinh hoặc hạn chế hợp tác. Nhưng sức mạnh ngày càng tăng của Trung Quốc cũng không biện minh cho những tuyên bố bá quyền ở châu Á và xa hơn nữa. Không quốc gia nào là sân sau của bất kỳ quốc gia nào khác—và điều đó áp dụng cho Châu Âu cũng như cho Châu Á và mọi khu vực khác. Trong chuyến thăm Bắc Kinh gần đây, tôi đã bày tỏ sự ủng hộ vững chắc đối với trật tự quốc tế dựa trên luật lệ, như được ghi trong Hiến chương Liên Hợp Quốc, cũng như đối với thương mại cởi mở và công bằng. Phối hợp với các đối tác châu Âu, Đức sẽ tiếp tục đòi hỏi một sân chơi bình đẳng cho các công ty châu Âu và Trung Quốc. Trung Quốc làm quá ít trong vấn đề này và đã có một bước ngoặt đáng chú ý là cô lập và xa rời sự cởi mở.

Tại Bắc Kinh, tôi cũng nêu quan ngại về tình trạng mất an ninh ngày càng gia tăng ở Biển Đông và Eo biển Đài Loan, đồng thời đặt câu hỏi về cách tiếp cận của Trung Quốc đối với nhân quyền và quyền tự do cá nhân. Tôn trọng các quyền và tự do cơ bản không bao giờ có thể là “vấn đề nội bộ” của từng quốc gia bởi vì mọi quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc đều cam kết bảo vệ chúng.

Turbines năng lượng Gió phía trước nhà máy nhiệt điện than gần Jackerath, Germany, March 2022

Wolfgang Rattay / Reuters

Trong khi đó, khi Trung Quốc và các quốc gia ở Bắc Mỹ và Châu Âu thích nghi với những thực tế đang thay đổi trong giai đoạn mới của toàn cầu hóa, nhiều quốc gia ở Châu Phi, Châu Á, Ca-ri-bê và Châu Mỹ Latinh đã tạo ra sự tăng trưởng đặc biệt trong quá khứ bằng cách sản xuất hàng hóa và nguyên liệu chi phí thấp hiện đang dần trở nên giàu có hơn và có nhu cầu riêng về tài nguyên, hàng hóa và dịch vụ. Các khu vực này có mọi quyền để nắm bắt các cơ hội mà toàn cầu hóa mang lại và đòi hỏi vai trò mạnh mẽ hơn trong các vấn đề toàn cầu phù hợp với sức nặng kinh tế và dân số ngày càng tăng của họ. Điều đó không gây ra mối đe dọa nào đối với công dân ở Châu Âu hoặc Bắc Mỹ. Ngược lại, chúng ta nên khuyến khích các khu vực này tham gia nhiều hơn và hội nhập vào trật tự quốc tế. Đây là cách tốt nhất để giữ cho chủ nghĩa đa phương tồn tại trong một thế giới đa cực.

Đó là lý do tại sao Đức và EU đang đầu tư vào quan hệ đối tác mới và mở rộng quan hệ đối tác hiện có với nhiều quốc gia ở Châu Phi, Châu Á, Caribe và Châu Mỹ Latinh. Nhiều người trong số họ chia sẻ một đặc điểm cơ bản với chúng ta: họ cũng là những nền dân chủ. Điểm chung này đóng một vai trò quan trọng—không phải vì chúng ta nhắm đến việc đặt các nền dân chủ chống lại các quốc gia độc tài, vốn chỉ góp phần tạo ra sự phân đôi toàn cầu mới, mà bởi vì việc chia sẻ các giá trị và hệ thống dân chủ sẽ giúp chúng ta xác định các ưu tiên chung và đạt được các mục tiêu chung trong thực tế đa cực mới của thế kỷ hai mươi mốt. Tất cả chúng ta có thể đã trở thành những nhà tư bản (có thể ngoại trừ Bắc Triều Tiên và một số ít các quốc gia khác), để diễn giải một lập luận mà nhà kinh tế học Branko Milanovic đã đưa ra cách đây vài năm. Nhưng nó tạo ra sự khác biệt lớn lao cho dù chủ nghĩa tư bản được tổ chức theo cách tự do, dân chủ hay theo đường lối độc tài.

Thực hiện phản ứng toàn cầu đối với COVID-19. Đầu đại dịch, một số người lập luận rằng các quốc gia độc tài sẽ tỏ ra lão luyện hơn trong việc quản lý khủng hoảng, vì họ có thể lập kế hoạch dài hạn tốt hơn và có thể đưa ra những quyết định khó khăn nhanh chóng hơn. Nhưng hồ sơ theo dõi đại dịch của các quốc gia độc tài hầu như không ủng hộ quan điểm đó. Trong khi đó, vắc-xin COVID-19 và phương pháp điều trị dược phẩm hiệu quả nhất đều được phát triển ở các nền dân chủ tự do. Hơn nữa, không giống như các quốc gia độc tài, các nền dân chủ có khả năng tự điều chỉnh khi các công dân bày tỏ quan điểm của họ một cách tự do và lựa chọn các nhà lãnh đạo chính trị của họ. Việc tranh luận và đặt câu hỏi liên tục trong xã hội, quốc hội và phương tiện truyền thông tự do của chúng ta đôi khi có thể khiến bạn cảm thấy mệt mỏi. Nhưng đó là điều làm cho hệ thống của chúng tôi trở nên kiên cường hơn trong thời gian dài.

Tự do, bình đẳng, pháp quyền và phẩm giá của mỗi con người là những giá trị không dành riêng cho những gì được hiểu theo truyền thống của phương Tây. Thay vào đó, chúng được chia sẻ bởi các công dân và chính phủ trên khắp thế giới, và Hiến chương Liên Hợp Quốc tái khẳng định chúng là những quyền cơ bản của con người trong phần mở đầu của nó. Nhưng các chế độ chuyên quyền và độc đoán thường thách thức hoặc phủ nhận các quyền và nguyên tắc này. Để bảo vệ chúng, các quốc gia EU, bao gồm cả Đức, phải hợp tác chặt chẽ hơn với các nền dân chủ bên ngoài phương Tây, như định nghĩa truyền thống. Trong quá khứ, chúng ta có ý định đối xử bình đẳng với các quốc gia ở Châu Á, Châu Phi, Caribe và Châu Mỹ Latinh. Nhưng quá thường xuyên, lời nói của chúng ta đã không được hỗ trợ bởi hành động. Điều này phải thay đổi. Trong thời gian Đức làm chủ tịch G-7, nhóm này đã phối hợp chặt chẽ với chương trình nghị sự của mình với Indonesia, nước giữ chức chủ tịch G-20. Chúng ta cũng đã tham gia vào các cuộc thảo luận của mình với Senegal, quốc gia giữ chức chủ tịch của Liên minh châu Phi; Argentina, quốc gia giữ chức chủ tịch Cộng đồng các quốc gia Mỹ Latinh và Caribe; đối tác G-20 của chúng ta là Nam Phi; và Ấn Độ, nước sẽ giữ chức chủ tịch G-20 vào năm tới.

Cuối cùng, trong một thế giới đa cực, đối thoại và hợp tác phải vượt ra ngoài vùng bền vững dân chủ. Chiến lược An ninh Quốc gia mới của Hoa Kỳ thừa nhận một cách đúng đắn sự cần thiết phải can dự với “các quốc gia không ủng hộ các thể chế dân chủ nhưng vẫn phụ thuộc và hỗ trợ một hệ thống quốc tế dựa trên luật lệ”. Các nền dân chủ trên thế giới sẽ cần hợp tác với các quốc gia này để bảo vệ và duy trì một trật tự toàn cầu ràng buộc quyền lực với các quy tắc và đối đầu với các hành động xét lại như cuộc chiến tranh xâm lược của Nga. Nỗ lực này sẽ đòi hỏi sự thực dụng và một mức độ nhún nhường.

Hành trình hướng tới tự do dân chủ mà chúng ta được hưởng ngày nay đầy rẫy những thất bại và sai sót. Tuy nhiên, một số quyền và nguyên tắc đã được thiết lập và chấp nhận từ nhiều thế kỷ trước. Habeas corpus, quyền được bảo vệ khỏi bị giam giữ tùy tiện, là một trong những quyền cơ bản như vậy—và lần đầu tiên được công nhận không phải bởi chính phủ dân chủ mà bởi chế độ quân chủ chuyên chế của Vua Charles II của Anh. Nguyên tắc cơ bản không kém phần quan trọng là không quốc gia nào có thể lấy đi bằng vũ lực những gì thuộc về nước láng giềng của mình. Tất cả các quốc gia cần phải tôn trọng các quyền và nguyên tắc cơ bản này, bất kể hệ thống chính trị nội bộ của họ như thế nào.

Các giai đoạn tương đối hòa bình và thịnh vượng trong lịch sử loài người, chẳng hạn như giai đoạn mà hầu hết thế giới đã trải qua trong thời kỳ đầu hậu Chiến tranh Lạnh, không phải là những giai đoạn hiếm gặp hoặc chỉ đơn thuần là những sai lệch so với chuẩn mực lịch sử trong đó bạo lực áp đặt các quy tắc. Và mặc dù chúng ta không thể quay ngược đồng hồ, nhưng chúng ta vẫn có thể đẩy lùi làn sóng xâm lược và chủ nghĩa đế quốc. Thế giới đa cực, phức tạp ngày nay khiến nhiệm vụ này trở nên khó khăn hơn. Để thực hiện điều đó, Đức và các đối tác của mình ở EU, Hoa Kỳ, G-7 và NATO phải bảo vệ các xã hội cởi mở của chúng ta, bảo vệ các giá trị dân chủ của chúng ta, đồng thời củng cố các liên minh và quan hệ đối tác của chúng ta. Nhưng chúng ta cũng phải tránh sự cám dỗ một lần nữa chia thế giới thành các khối. Điều này có nghĩa là nỗ lực hết sức để xây dựng quan hệ đối tác mới, một cách thực tiễn và không có ý thức hệ mù quáng. Trong thế giới kết nối chặt chẽ ngày nay, mục tiêu thúc đẩy hòa bình, thịnh vượng và tự do của con người đòi hỏi một tư duy khác và các công cụ khác. Phát triển tư duy đó và những công cụ đó cuối cùng là mục tiêu của Zeitenwende.

OLAF SCHOLZ is Chancellor of Germany

 
 

Hồ Lạc Hồng dịch

___________________________________________
[1] The Global Zeitenwende_How to Avoid a New Cold War in a Multipolar Era_Olaf Scholz – Foreign Affairs January/February 2023
[2] End of an era; turning point (in history)
[3] What belongs together could grow together