Đọc "ÂM TUYẾT ĐỎ THỜI GIAN"[1]

hay "Những Vết Thương Tâm Chưa Ráo Sắc Màu" của Nguyễn Lương Vỵ



ta mồ côi em ngồi khâu mộng ảo
những vết thương tâm chưa ráo sắc màu (NLV)
 
 
 

Âm Tuyết Đỏ Thời Gian là tập thơ thứ 12 và cũng là tập thơ cuối cùng của nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ (1952-2021). Thi tập chỉ vỏn vẹn 140 trang, với 15 bài thơ ngắn và bài trường ca Âm Tuyết Đỏ Thời Gian dài 360 câu. Tuy không tập họp nhiều bài thơ, nhưng tôi có dịp đọc hầu hết các thi tập của ông thì tập thơ này giản dị, đơn sơ nhưng tính cô đọng hàm súc rất cao, bao quát cả một đời sáng tác.

Hai câu thơ mở đầu bài thơ Chẳng Biết Vì Đâu (thay lời tựa) của tập thơ Âm Tuyết Đỏ Thời Gian có thể nói biểu hiện khá trọn vẹn một định mệnh mang tính bi kịch cuộc đời của nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ:

Nằm mộng nghe chữ khóc
Những bóng đời khóc theo

Trong Thi ca và Triết lý, MộngĐời tuy Hai nhưng là Một. Phạm trù ĐờiMộng chỉ là mặt trái phải của con người nếu hiểu con người đến rồi ra đi như một chớp mắt với quan niệm Phật Giáo (Mộng huyễn bào ảnh…/ kinh Kim Cang) hay bị ném vào (Thrownness/ Geworfenheit) theo triết học Heidegger. Thoáng chốc cuộc đời là bản chất cuộc vô thường (anicca/ Impermanence), còn ném vào cuộc đời là tính ngẫu nhiên (contingent). Tuy nhiên cả hai Mộng, Đời đều biểu hiện tồn tại trong khung thời gian (mộng trong đời, đời trong mộng) vì nói đến cuộc đời con người, người ta thường hình dung tính kham nhẫn chịu đựng hay chấp nhận theo trạng huống mang dấu ấn định mệnh mà cuộc đời mang đến.

Nằm mộng nghe chữ khóc
Những bóng đời khóc theo
Bông nắng đỏ lưng đèo
Bông mưa xanh đỉnh núi

Nghe chữ khóc trong Mộng, rồi bóng Đời khóc theo. Đời là bóng và bóng khóc theo khi nằm Mộng nghe chữ khóc thì quả thật MộngĐời không có bến bờ, ranh giới. Ở đây thực, mộng hòa lẫn vào nhau: một dàn trải cảm xúc (emotions) và cảm giác (feelings) khi mà nỗi buồn đau hay niềm vui hạnh phúc của thực tại hoặc trong một giấc mơ không hề có sự khác biệt. Tiếp theo hình ảnh nắng đỏ, mưa xanh hóa bôngmàu sắc và âm thanh vốn đặc thù của cõi thơ Nguyễn Lương Vỵ. Tuy nhiên lần này âm thanh mở đầu là tiếng Khóc biểu hiện khôn nguôi một nghịch cảnh cuộc đời. Nếu không muốn nói sự oái oăm của số phận, thì trôi nổi lênh đênh miêu tả thực tính cách của một vận số theo dòng thời gian bao giờ cũng chìm đắm trong đau đớn, đắng cay. Do đó trường ca “Âm Tuyết Đỏ Thời Gian” có thể tạm gọi là một Bi ca (Elegy) mà nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ viết về chính cuộc đời của mình.

Bài thơ Chẳng Biết Vì Đâu ngoài chữ Khóc còn thêm các chữ Chết non, Ướt huyết, Yểu mệnh như mô tả bản chất thứ nghiệp dĩ thi ca vắn số:

Phải chăng ta run rủi
Ôm câu thơ chết non
Hài nhi tươi như son
Nguyên âm còn ướt huyết

Chữ khóc rất tha thiết
Đời khóc rất hồn nhiên
Ta khóc rất cuồng điên
Rồi cúi đầu sụp lạy

Trời cao ơi không đáy
Đất sâu ơi khôn cùng
Thơ chết non bập bùng
Những chân dung ẩn hiện

. . . Tha thiết khóc, khóc hồn nhiên, khóc cuồng điên . . . rồi cúi đầu sụp lạy nêu bật tính cùng khốn vững bền của định mệnh vì Trời cao ơi không đáy/ Đất sâu ơi khôn cùng . . . vốn là tiếng van xin thiết tha khiến chúng ta nghĩ đến mối oan khuất, khắc nghiệt của một vận số. Mỗi bài thơ của Nguyễn Lương Vỵ đều hàm chứa nỗi khổ tâm cùng cực, vô tận dù bản thân luôn tìm cách hòa giải những xung đột quá khứ và nỗi điêu linh hiện tại bằng chính nỗ lực yêu thương vô điều kiện cõi đời đầy bất hạnh của mình.

Đặc biệt hơn nữa bản chất thi ca Nguyễn Lương Vỵ cô đọng tính không hoàn tất (incompleteness) từ nỗi cô đơn kinh khiếp, nền tảng cho cảm hứng sáng tác khiến chính nó lại đặc thù tính dang dở số mệnh. Từ đó, nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ, kẻ ôm ấp định mệnh (amor fati) dang dở này, đã hoàn tất (completeness) sự nghiệp thi ca của mình[2].

Phần hai tập thơ có tên Ghi Chú Ngàn Thu tập hợp 12 bài thơ, mỗi bài có ba khổ thơ và mỗi khổ thơ theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Phải nói rất đặc biệt vì tài năng của nhà thơ đối với thi pháp cổ điển này. Thơ bảy chữ tám câu thể Đường luật có hai câu Thực (3, 4) và Luận (5, 6) đối nhau. Nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ sử dụng đối nghĩa và đối âm thật khéo léo tài tình. Bài thơ mở đầu Tan Sương Đầu Ngõ mượn chữ trong Kiều:

1.
Tan sương đầu ngõ có ai ngờ
Gặp lại ta là mây xanh lơ
Hôm nay tạnh ráo màu siêu thực
Bữa nọ òa bay sắc viễn mơ
Cảm tạ tình sau thương ý trước
Tri ân tâm đạo thấu huyền cơ
Biển dâu dẫu biết lòng chưa thỏa
Vẫn ngước trông lên lạy mịt mờ

Như tên Ghi Chú Ngàn Thu, cả 12 bài Cảm Thán về Nỗi Đời Không Quên của nhà thơ. Đó là tập hợp những kỷ niệm buồn vui của chính ông và những người chung quanh ông. Tất cả những dấu mốc thời gian này luôn là lời độc thoại mô tả phần lớn nội tâm biến chuyển lên sinh hoạt hàng ngày. Đồng thời nó còn là nét khắc ghi trong tâm thức mỗi tứ thơ phần đời bi thảm, nhưng không bao giờ úa tàn của mình. Với xúc cảm tôn giáo trong Bài Ca Kính Ngưỡng:

2.
Kính ngưỡng gần và kính ngưỡng xa
Và chuông ngân và mưa liên hoa
Đóa sen lay nhẹ lời bi mẫn
Cánh gió vang lừng giọng thiết tha
Phố cũ tê nhòa năm tháng mộng
Lòng đây sáng tỏ phút giây qua
Gửi một bài ca vô tận xứ
Độc cô kham nhẫn niệm bao la

hay Cảm khái nỗi niềm thân phận trong khổ thơ 1 có tên Không Đề Tháng Tư:

1.
khuya tháng tư nghiêng hết mái tây
cuối đời ta như chim lạc bầy
biệt xứ ly hương thương ngọn gió
đau tim buốt óc nhớ lưng mây
trời quen ma khóc lời oan nghiệt
đất lạ quỷ hờn thơ khôn khuây
lệ khô đêm tận ngồi như tượng
một đống chiêm bao đến nắm tay…

Khổ thơ 2 và 3 chấm dứt bằng hai câu: lệ khô đêm tận ngồi như miếu/ một đống chiêm bao đến thỉnh cầulệ khô đêm tận ngồi như núi/ một đống chiêm bao đến rủ đi… miêu tả nỗi cô đơn tồn tại thứ ám ảnh cuộc đời chiêm bao quấy nhiễu không ngơi nghỉ tâm hồn nhà thơ: chiêm bao đến nắm tay, chiêm bao đến thỉnh cầu, chiêm bao đến rủ đi…

Bài thơ Bô-Lê-Rô Bên Đèn Khuya thêm vào tình cảnh cuối đời hiu quạnh của kẻ ly hương biệt xứ:

1.
tuổi già ghiền nhạc bô-lê-rô
đèn khuya hiu hắt ngấn lệ khô
tiếng hát liêu trai trong ngất tạnh
cung đàn khổ hạnh giữa đời cô
độc hành một kiếp chưa xong nợ
quạnh vắng đôi bờ chẳng biết mô
chớp mắt thấy bông trời rụng miết
trời chưa hửng sáng tưởng hư vô
. . .

Và những tiếc nhớ kỷ niệm một thời trong bài Cuối Hạ Đầu Thu:

1.
theo mộng về thăm sài gòn mưa
cuối hạ đầu thu chiều cũng vừa
trắng mù mưa bay trên phố chật
xám tro lá khóc bên quán xưa
vuốt mặt nhớ tri âm chìm khuất
đan tay nghe hồn vía đong đưa
bên đây mặt trời thức dậy sớm
sài gòn mưa em đã ngủ chưa?

Bài Sớm Thu Không đẫm màu tưởng niệm sự bất lực bản thân trong tuổi già cô quạnh:

3.
trời thu không mùa lên mênh mông
dương cầm thu bay đi bềnh bồng
trên cao rơi giọt đàn yểu mệnh
dưới thấp im ngấn lệ đứng tròng
nghe ngóng thế thôi rồi tưởng niệm
trông vời vậy đó để tọa vong
vậy nhé rất quên là rất nhớ
trời thu không mùa lên mênh mông.

Nhìn chung 36 bài thể Đường luật mô tả sinh hoạt hiện thời của chính nhà thơ. Một số bài hiệu đính như cập nhật cảm hứng của ông theo dòng thời gian. Đa số là những bài thơ viết từ năm 2017 có nghĩa sau khi sức khỏe của nhà thơ suy sụp qua lần giải phẫu tim. Và trường ca Âm Tuyết Đỏ Thời Gian là bài thơ dài cuối cùng như một bi khúc kể lể cuộc đời qua nhìn ngắm bản thân những ngày tháng cuối cùng. Trường ca có chín khúc và khúc thứ nhất bắt đầu bằng hai câu thơ của Joseph Huỳnh Văn:

I.
Khuya nức nở những cõi lòng không ngủ
Đợi vì sao dậy sớm tiễn người đi
Lời giã biệt niềm chi đau gió hú
Khép lòng tay nghe nắng cũ thầm thì

Có dịp đọc nhiều thơ Nguyễn Lương Vỵ, tôi nhận ra ông rất tâm đắc thơ Joseph Huỳnh Văn. Ông đặc biệt quý mến và thương tiếc nhà thơ Joseph Huỳnh Văn (1942-1995) với những bài "Cầm Dương Xanh", "Cầm Nguyệt Xanh"... gợi hứng cho nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ sử dụng nhiều lần chữ cầm dương xanh, trắng hay dương cầm xanh, trắng trong các bài thơ của ông. Thi khúc thứ nhất trong Âm Tuyết Đỏ Thời Gian với khổ thơ thứ hai:

Nghe thời khắc rướm âu sầu rạng rỡ
Âm còn đây hay đã ở đâu rồi
Lời giã biệt hay là lời chẳng nỡ
Bởi ngàn trùng là ngấn lệ đấy thôi

Người đã gửi câu thơ trong ngất tạnh
Những vì sao dậy sớm biết bao phen
Cầm dương trắng cầm dương xanh lóng lánh
Lời tro than khía cạnh đỏ môi đèn

Tưởng nhớ nhà thơ J. H. Văn, Nguyễn Lương Vỵ gửi tâm tình chính mình qua chiếc bóng đã mất những âm sắc cuộc đời như tiếng vọng thời gian:

. . .
(chẳng thể nói một đời chi hơn nữa
một âm lạ ngủ vùi trong ngách cửa
một đời quen chớp mắt gọi người đi
cơn say khướt vỡ òa theo nỗi nhớ…)

ta đã gửi lời sầu câm rạng rỡ
nhịp cầm canh xanh đỏ tím lam rơi
lời tịch mịch ghìm cơn đau mấy thuở
bên đời kia âm tan theo muôn nơi

Đặc biệt màu sắc hay âm thanh hiện diện trong muôn trùng tịch mịch của một tan nát cõi lòng; và ở đây tính dang dở, chia lìa của nỗi cô đơn đậm nét, lúc này chính nhà thơ nói với chiếc bóng của mình:

ta đã gửi suốt một đời lầm lũi
đời mồ côi thương hạt bụi điêu linh
bụi ca hát cùng ta mơ chín suối
mộng mười sông đông đủ gió thâm tình!!!

Và khao khát của một cõi lòng vốn tan nát vì cơn đau muôn thuở:

khuya nức nở hồn sơ sinh rướm huyết
tuyết băng ơi và ngấn lệ kia ơi
lời tri ngộ cũng là lời vĩnh quyết
mở lòng tay nghe tiếng nấc xa xôi

nghe thời khắc nhắn người đi kẻ ở
lá đầu cây rung máu lá trong cây
ta vẫn đợi người về trong hơi thở
tự nhủ thầm: Âm-tuyết-đỏ-trong-tay!!!

Bài thơ mở đầu như giới thiệu một chân dung cuộc đời: có cả âm thanh của tiếng khóc đầu đời, và kéo dài suốt một đời con người sống trong tịch liêu cô độc cùng Âm tuyết đỏ trong tay. Đó là Âm vọng Tiếng thét não lòng (Âm) trong Lạnh giá cô liêu (tuyết) khiến âm thanh biến thành Máu (Sắc). Và Âm Tuyết Đỏ Thời Gian có thể nói ngoài biểu tượng (symbol) một cõi thi ca còn là hình tượng (icon) cuộc đời của chính tác giả.

Bài thơ tiếp theo đi vào bao đặc thù của cảm xúc như hoài niệm, hoài cảm quá khứ, trong đó tuổi thơ, quê nhà, tình yêu và bao kỷ niệm đi theo tiếng thời gian:

II.
. . .
lá lá lá buốt âm đời nức nở
mùa cầm dương thương giọng nói tro than
mùa thức đậm mắt tre già nuối nhớ
mùa vời trông khắc vợi nhịp ly tan

mắt em xưa vẫn tràn hồn thơ dại
đêm với lên tiếng gọi của muôn trùng
đêm chảy ngược mở tung ngực áo não
đêm vang trầm kỷ niệm phố mềm lưng

. . .
chào kiến bé gầy vai khiêng hạt thóc
mùa trần gan heo hút dấu chân ghi
mùa lãng mạn gió xanh rờn mái tóc
mùa chia xa cây lá thức rầm rì

Bài thơ dùng ý gợi xúc cảm âm sắc quá khứ, khúc Sonata mang dấu kỷ niệm vực trở lại bao nỗi buồn đau phiền muộn hiện tại, đồng thời nuôi nấng tính khoan dung mọi xung đột mâu thuẫn mang tính tiêu cực của tâm tư:

chào bóng cũ thềm hoang rơm nhớ rạ
nghe trong cây nắng đã trút linh hồn
nghe trong nắng cây hóa trầm hương tỏa
nghe trong đời em đẻ vội ngàn sông

gọi gió trong em gọi em trong gió
thơ trong veo trong vắt đón nhau về
chữ cảm động dựng ngôi nhà tuyết đỏ
âm sáng lừng tan theo sonata . . .

Màu sắc hay âm thanh vốn là thứ ngôn ngữ thi ca biểu tượng của nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ. Phải nói chính nó như thứ chìa khóa giải đáp những vấn nạn cuộc đời của ông, và nó có giải quyết hay không là chuyện khác, nhưng qua màu sắc và âm thanh trong thơ ông đã đưa chúng ta đi vào một cõi xúc cảm thi ca thực và mộng hòa lẫn vào nhau:

III
. . .
người bạn hỏi cầm dương hay dương cầm?
ta cười buồn xòe bàn tay ra đếm
cầm dương thì nâu dương cầm thì tím
thơ khát ngàn trùng thì tím và nâu

tím và nâu đang vút lên đôi câu
bạn cười buồn nhắc hiên xưa phố cũ
phố cũ gầy như cánh buồm viễn xứ
ta sửng sốt nhìn một bóng nhện sa

Khi nhìn bóng nhện sa tức thời gian như đang dừng lại trong tâm hồn nhà thơ và thực tại là thứ bi kịch:

nhện sa huyết cầu huyết phượng huyết hoa
ta cười lớn phổi trào ra huyết biển
biển trắng và xanh và nâu và tím
và bạn và ta và nắng hòa âm

hòa âm vang lừng hòa âm âm âm
câu thơ cũ vẫn u trầm trong ngực
màu viễn xứ rạng ngời trong ký ức
một kiếp đời bao nhiêu kiếp chia xa?!

Đến đây bao nhiêu màu ký ức đi nữa: nâu, xanh, tím, trắng cũng chỉ là âm bản của đỏ. Đỏ lúc này có thể là huyết phượng (màu đỏ thực) hay huyết biển vốn là biển huyết (máu). Màu đỏ của nỗi đau, của máu lệ kèm theo âm, nghĩa là tiếng thét, tiếng khóc, để rồi trở thành tiếng ca với thứ Hòa Âm nghe qua như dung hòa bao mâu thuẫn xung đột để có một giải pháp nhưng không phải như vậy! Hòa âm vang lừng hòa âm âm âm/ câu thơ cũ vẫn u trầm trong ngực cô đọng ý nghĩa rền vang, âm ỉ kéo dài như một tồn tại bất lực đẫm màu chia lìa dở dang. Lúc này màu sắc và âm thanh một thể: màu viễn xứ rạng ngời trong ký ức/ một kiếp đời bao nhiêu kiếp chia xa. Và màu này bao giờ cũng đỏ, màu của một ngụm huyết phun ra, như là hệ quả từ một nỗi bi phẫn oan khuất:

nhện sa huyết cầu huyết phượng huyết hoa
ta bưng mặt nghe lời ma tuyệt tận
ma thiên cổ ma đời nay khóc hận
một kiếp đời bao nhiêu kiếp lầm than?!

Trong bi khúc Âm Tuyết Đỏ Thời Gian thiếu vắng bóng dáng ý tứ thơ lãng mạn mà như chìm đắm trong một cảm thán trường thiên về nỗi quạnh hiu cô độc cuộc đời. Bài thơ VI thoảng qua một tia nắng mỏng manh như ánh chớp hồi ức:

. . .
Âm lắng xuống ý trào lên ánh chớp
Của hồn hoa phơ phất tự hôm nào

Và một cái chớp mắt của thời khắc quá khứ đi vào cảm xúc hiện tại:

chớp mắt em ướt giọt nắng đồng dao
nắng huýt sáo ở bên rào hồng hạnh
trời trở mùa ngọn cỏ khô lóng lánh
như có ai về hồn cầm dương bay

mấy hôm rày thơ đi chơi chẳng hay
ý thảng thốt tiễn đưa ngày quá vãng
âm trắng ngất trên đường về vô hạn
giọng cười khô đá xám nhớ môi người

Nguyễn Lương Vỵ rất ít nhắc đến tình yêu trong tập trường ca này, phải chăng đó cũng là một nét chấm phá tiêu cực trong bức tranh đời! Nếu có thoảng qua một dư âm, một dư vị cũng chỉ giọt nắng ngày mưa, đến rồi thoảng qua biến mất:

chớp mắt em trời hôm ấy rất tươi
nắng rảo bước rất biếng lười nhắc lại
trời trở mùa ngọn gió cũng ngây dại
như trang kinh chìm trong mây đang trôi

Để rồi tự trào, luyến tiếc mang tính bằng lòng, an phận từ một thực tại triền miên dở dang:

Rằng thì là nước đã bỏ xa nguồn
Câu thơ nào chết non chưa biết khóc
Câu thơ nào bướm gáy vang triền dốc
Câu thơ nào buông tay rơi mênh mông

Nước đã bỏ xa nguồn chất chứa tình cảm chia lìa, đứt đoạn nói chung là tính không hoàn tất của bao vun đắp xây dựng cuộc đời. Và nghịch cảnh là thứ bi hài cuộc đời:

xòe bàn tay đón cơn mưa vĩ cầm
trời nghịch âm mạn ngược trăng đổ dốc
ta nghịch âm trốt gió xoáy long óc
cánh ong bay chiều té sấp tê nhòa . . .

Nhà thơ dùng phép ẩn dụ (metaphor) “xòe bàn tay đón cơn mưa vĩ cầm” mô tả nghịch lý của tâm-vật lý ghép vào nhau, sản sinh chuỗi xung động tâm lý trong ba câu thơ tiếp theo khiến thơ mang âm vang của một thời khắc bị chộp bắt hoàn toàn vì nỗi vô vọng nơi tận đáy sâu tâm thức.

Sáu khổ thơ phần một bài thơ thứ năm là một tự sự, cảm thán thân phận mình. Tuy nhiên, nhà thơ rất lạc quan, hy vọng cho rằng số mệnh của mình vận đỏ. Trong bảy khổ thơ đều bắt đầu bằng “hên vì . . .”

. . .
hên vì đời mồ côi ta mồ cút
ấy tuy nhiên chết hụt biết bao lần
hồn niên thiếu nghe rần ngân gió trút
mây trên đầu bông bụt đỏ trên sân

Nhưng “hên” gì đi nữa vẫn không giấu được nỗi niềm cay đắng, bất hạnh cuộc đời dù chính nó khiến cho cõi thơ của ông mang nét đặc thù riêng tư tuyệt vời rất mực! Ở đây những đối nghịch mâu thuẫn quyện vào nhau vì tính định mệnh, nhưng thực tại rền vang “âm” hay “sắc”, “ma” hay “người” cũng vốn chỉ là chiếc bóng té ngã bên cầu, mà câu thệ nguyện chỉ có thể thực hiện trong đời cát bụi nên huyết âm kia rền rĩ mãi trong ma-ta và ma-người mà thôi:

. . .
hên vì bóng huyết âm từng đã gặp
ấy tuy nhiên ai té sấp bên cầu
câu thệ nguyện từ lâu reo réo rắt
huyết âm rền cho cát bụi thương nhau

hên vì gió bên đời bay quá rợp
ấy tuy nhiên ma lớp lớp thâm tình
ma-ta nhớ ma-người sau với trước
xa với gần xuôi với ngược mần thinh

Trong 9 khổ thơ còn lại của bài thơ V, 8 khổ bắt đầu bằng câu “chào ta nhé . . .” viết như lời di chúc:

chào ta nhé đầu xanh ơi đã bạc
vẫn hồn nhiên nghe núi hát sông đàn
cho sống chết hân hoan đẹp tan nát
rồi tan tành trong chớp mắt dung nhan

chào ta nhé một lần thôi cũng quá
ấy tuy nhiên các em đã xa rồi
tình đã ngấm hết một đời chưa thỏa
thơ khôn cùng rung huyết tạ mù khơi

Câu thơ “chào ta nhé” là lời nói với chính định mệnh mình, Nguyễn Lương Vỵ viết câu thứ hai bắt đầu “ấy tuy nhiên” như nhắc nhở một khát vọng để thực hiện điều gì chưa thỏa:

chào ta nhé nghiêng vai mời ngất tạnh
ấy tuy nhiên quang với gánh hao gầy
niềm thương tưởng đã trưng bày khía cạnh
xương trắng rền tuyết đỏ lạnh trong tay

chào ta nhé một kiếp này lầm lũi
ấy tuy nhiên xin kiếp nữa làm người
người với ngợm với ma ngồi đắm đuối
niệm vô thường niệm mãi vẫn khôn nguôi

Trong bi khúc VI, nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ gửi trọn nỗi niềm cuộc đời rõ nét nhất. Cảm xúc bắt đầu cho cảm tác nghệ thuật, và nó là nỗi cô đơn ngút ngàn sương khói (ta mồ côi em) mà nhà thơ sẽ phải hoàn tất cái gì đó do khát vọng đòi hỏi. Đấy là bắt đầu của nỗi cô đơn:

rất nhiều câu thơ viết hoài chưa xong
đành phải chia tay mà lòng vẫn xót
câu thơ bay đi ướt hết mênh mông
chỉ còn mình ta ngồi thương tóc bạc

. . . ta mồ côi em ngồi chơi với nắng
khúc nhạc chiều tà Schubert nhói tim
chìm khuất phố xưa chìm tan huyết phượng
chìm lặng môi khô mắt ướt ngóng tìm

Trong tình yêu, nỗi cô đơn vĩ đại nhưng thương tâm nhất. Cô đơn trong tình yêu mang đậm nét nhân văn vì nó khiến cường độ yêu thương gia tăng và điều này hứa hẹn nỗi đau đớn cũng ghê gớm nhất. Thế nên thái độ của nhà thơ cô đơn như thế nào?

ta mồ côi em ngồi khâu mộng ảo
những vết thương tâm chưa ráo sắc màu
năm tháng trong veo treo một tà áo
náo nức thiên thanh bay vút lên cao

ta mồ côi em ngồi nhìn bóng ta
bóng đổ liêu xiêu là bóng không nhà
là bóng thất thanh là bóng thất sắc
cô liêu chín chiều là bóng nhện sa

Nỗi cô đơn chính là “những vết thương chưa ráo sắc màu” có nghĩa vết thương không lành, mãi mãi chưa ráo sắc màu. Bài thơ lý giải rất rõ ý nghĩa “Âm Thanh và Sắc Màu” hay “Âm Tuyết Đỏ Thời Gian” trong cõi thơ Nguyễn Lương Vỵ. Tất cả xuất phát từ những vết thương tâm chưa ráo sắc màu. Viết câu này nhà thơ đã 66 tuổi thì thử hỏi phải chăng “cô liêu chín chiều là bóng nhện sa”? Bóng nhện sa ở đây là thời gian, mà thời gian khi nhìn thấy bóng nhện sa rất nhanh. Thấy bóng nhện sa, đã hết một đời người và “năm tháng trong veo treo một tà áo”, tượng trưng thời gian lạnh lùng trôi qua nhưng không thấy gì ngoài một tà áo bởi vì năm tháng trong veo, nên khi nhìn lại mình thì “chào ta nhé đầu xanh ơi đã bạc” thế nên âm tuyết đỏ thời gian còn là lời nhắn nhủ trong cơn mê sảng:

em ơi tươi bông em ơi rợp nắng
nắng đỏ rung cương ngựa trắng lam hồng
bài thơ chưa xong bài thơ mặn đắng
ta quên mất rồi sao vẫn thương mong?!...

Bi khúc VII chữ Sầu vun đắp nên thứ xúc cảm rất đẹp mà nhà thơ NLV diễn tả trọn vẹn:

sầu lẫm liệt núi vẫn ngồi thinh lặng
hồn đường thu vừa lắng chút dư âm
âm rất mỏng mà sao nghe sầu lắng
cánh buồm xa vang những tiếng la thầm:

sầu ngất áo sầu câm năm tháng cũ
sầu im vai phai sắc gió thu phai
người bạn nhắc một vài lời viễn phố
ta ngồi nghe máu nở khúc chiều tà

Sầu là thứ buồn cô đọng trong tâm hồn và dàn trãi mênh mông trong phơi bày cảm xúc nên rất mực mơ hồ, thi vị trong thi ca. Hai câu sầu ngất áo sầu câm năm tháng cũ/sầu im vai phai sắc gió thu phai diễn tả ý niệm sầu (nostalgia) chiếm hết không-thời gian của đời. Sầu còn là quê hương lưu giữ bao xúc cảm kỷ niệm từ ký ức kéo về thực tại thế nên:

sầu tịch mịch sầu bi âm buốt lá
sầu tàn canh tầm nã dấu hương bay
người bạn nhắc bóng ngày trên vách đá
ta ngồi ru chiếc lá ngủ trong tay

Sầu tự thân cho ý nghĩa sống tiêu cực, nhưng mang phiên bản tích cực trong tượng trưng thi ca. Sầu trong thơ NLV, bắt đầu từ những mẩu ký ức rời rạc, ngắt quãng trên dòng thời gian nhưng ý niệm sầu lại bao trùm thứ thực tại của ký ức tái tạo những khung đời ẩn hiện trên vách đá mang tính mô phỏng “người bạn nhắc bóng ngày trên vách đá/ ta ngồi ru chiếc lá ngủ trong tay”: ngồi ru ta hay ru chiếc lá như nhau vì có thể ta đang ngủ, đang trong cơn mộng vì mối sầu tầm nã một mùi hương xa xăm.

Bi khúc VIII là một nỗi đau, một vấn nạn kết quả từ chính bản thân không giải đáp nổi. Điều đáng nói là chính nhà thơ tự hỏi, bắt đầu mượn câu thơ của Vũ Hoàng Chương:

VIII.
câu thơ hiện ra muốn rơi nước mắt:
xiết bao ngờ vực kiếp người đó ư?!
tiếng than thầm hay câu hỏi trầm tư
nhắm đôi mắt hay khép hờ đôi mắt

“Kiếp người đó ư?” là chủ đề của bi khúc 8, khá trớ trêu nhà thơ hỏi chính mình về cuộc đời mình, đúng ra là định mệnh mình. Câu hỏi cũng là câu than (?!) ôm trọn tính bi kịch của một định mệnh. Khổ thơ thứ hai, ba tiếp theo như giới thiệu một số phận:

khuya nhương sao tiếng thời gian thầm nhắc
nhánh phong lan ủ mệnh sắc hương xưa
dương cầm mưa xanh quá dương cầm mưa
vuốt mắt lá thương lòng đêm cỏ mục

bài hát cũ hay là lời khánh chúc
đời lãng quên hay mây trắng lãng quên
rìa vực nhen heo hút một ngọn đèn
kiếp kiếp mọc gió rền trong cổ tháp

Câu hỏi mang tính tuyệt vọng, bế tắc gần như hỏi chính là trả lời và câu trả lời cũng chính là câu hỏi: kiếp người đó ư?! Hoàn toàn không có giải đáp:

kiếp người đó ư?! giữa thời mạt pháp
rất nhiều khi sầu ngất những hiên đời
hiên xám máu xô ngang triều gió giật
chân dung người chân dung ma sóng đôi

Chúng ta không cần phải tìm hiểu cuộc đời của nhà thơ như thế nào, nhưng chúng ta không thể không sống hay chia sẻ với những cảm xúc trong cõi thi ca của nhà thơ. Có rất nhiều oan khuất, bất công trong khi đặt ra câu hỏi, nhưng thời mạt pháp hỏi cũng như không. Bởi nhìn cuộc đời thật thì sầu ngất những hiên đời! để rồi chân dung ngườichân dung ma là hai nhưng là một vì mộng thực không có bến bờ! Ma hay Người trong thời mạt pháp không khác biệt vì:

kiếp người đó ư?! tìm nhau những ai
những kia những sau những nọ bi hài
cắn một âm nhớ quá mồ viễn xứ
mồ ta hong khô giọt lệ buốt vai

và tự an ủi:

kiếp người đó ư?! đành thôi thế thôi
trùng vây oan khiên ta nuốt hết rồi
chật ních chỗ ngồi ma về đông đủ
phủi chân vỗ tay và hát rân trời

Khổ thơ này giải đáp câu hỏi kiếp người đó ư? Khá trọn vẹn cho một tồn tại trong cuộc hành trình cuộc đời cô đơn ngút ngàn thống khổ không khác một cơn mê cho nên kiếp người hay kiếp ma cũng thế thôi vì “trùng vây oan khiên ta nuốt hết rồi” và:

cuối thu huyết rung khuya chìm theo khuya
mộng huyễn gì đâu lịch kiếp theo về
ta ôm bóng ta vỗ trán tỉnh giấc
giọt lệ chưa khô chưa ráo cơn mê…

Bài bi ca “Âm Tuyết Đỏ Thời Gian” sau khi mở ra 8 phiên khúc sầu bi cuộc đời thì khúc thứ 9 đóng lại. Chín khổ thơ cuối cùng của khúc thứ 9 là cánh cửa thoát của một bế tắc, là quê nhà của kẻ đi hoang trở về, và là thiên đường của đời cô đơn bất hạnh. Nếu tám bi khúc trước là nơi chốn trầm luân thì Về bên Mẹ là mái nhà ấm áp hạnh phúc. Thi khúc cuối giúp nổi bật hơn nữa tính bi đát cuộc đời của tám bài thơ trước. Nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ viết bài thơ thứ 9 của trường ca này như ước vọng cuối cùng của ông:

IX.
vâng thưa mẹ con đã về bên mẹ
ngồi bên hiên nhà cũ thấm ân tình
trời xuống thấp đất lên cao nắng xế
chiều u trầm chiều êm như trang kinh

mẹ rất mỏng như không gian rất mỏng
con rất ngây như thời gian rất ngây
và đôi tay rất ấm trong đôi tay
và đôi mắt rất nồng trong đôi mắt

Những câu thơ hết sức thiết tha, đẫm tình yêu thương người mẹ. Đọc bài thơ này ai cũng có thể nghĩ rằng nhà thơ đã quá lâu xa cách người mẹ thân yêu của mình. Đúng là mùa đại dịch (Pandemic) không cho phép nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ về quê nhà VN thăm người mẹ hơn chín mươi tuổi của mình là một ước mơ rất bình thường. Nhưng cung cách sử dụng chữ của ông mang đầy tính bi đát của một kẻ sống triền miên trong dòng đời dở dang bất hạnh, khát khao một nơi chốn quay về. Và những kẻ bị ngọn roi cuộc đời đánh tan nát, trong tuyệt vọng thường kêu tiếng “Mẹ ơi!” vì lúc này mẹ là kẻ che chở, bảo vệ đứa con trước bao nguy nan, khốn khó:

con nhìn mãi chiều thu xa xanh lắm
tiếng hát xanh xanh ấm đất trời êm
như lá nõn như cành non mướt đêm
mẹ ấp ngực ru con theo dòng sữa

vâng thưa mẹ con đã ngồi bên cửa
bên niềm vui bên nỗi nhớ đong đầy
mây trắng xóa mắt nhòa theo bóng mây
tim bỗng nhói chiều bỗng gầy heo hút

và những câu sau đây miêu tả vị trí, vai trò mẹ trong tâm hồn nhà thơ:

con nhìn mãi những chiều xa bay trắng
âm bay nghiêng hơi ấm mẹ trong đời
đời nghiêng ngửa đời ly tan lâu rồi
huyết âm mẹ trong con riu ríu lửa

Ước mơ về với mẹ lúc này biến thành khát vọng cuối cùng. Và thật như thế, Nguyễn Lương Vỵ viết hai khổ thơ cuối cùng đóng lại bi khúc:

con nhìn mãi giọt lệ khô chan chứa
biển rền vang đồng vọng núi mênh mang
ôi thời gian thời gian ôi thời gian
con ôm mẹ giữa chiều ngân giọng sáo

vâng thưa mẹ con lần theo nếp áo
áo sờn vai hai bóng một vuông chiều
chiều rất thẳm chiều rất trầm yêu dấu
như chưa từng… thưa mẹ biết bao nhiêu…

Câu “Ôi thời gian thời gian ôi thời gian” trong bài thơ được nhấn mạnh như nỗi oan khiên cuộc đời mà bản thân nhà thơ phải triền miên chịu đựng. Và nó cũng khiến ý nghĩa trở về bên mẹ mang tính trớ trêu nhưng lại vô cùng nhân bản.

Tóm lại, Tập thơ Âm Tuyết Đỏ Thời Gian của Nguyễn Lương Vỵ miêu tả hầu như trọn vẹn bao xúc cảm ký ức quy về một thực tại trường cửu trong 360 câu thơ, cùng 15 bài thơ ngắn như một dòng sống luân lưu tuôn trào tiếng kêu bi thiết vang vọng, và màu sắc biểu tượng trong suốt hành trình cuộc đời. Tập thơ Âm Tuyết Đỏ Thời Gian cũng là di sản cuối của nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ. Ngày 18 tháng 2 năm 2021 nhà thơ ra đi nhưng thơ ông vẫn mãi mãi chứa chan biểu tượng Âm Vọng Sắc Màu điển hình của một cuộc đời con người. Cũng từ đó, phải chăng người yêu thơ chúng ta có dịp đọc thơ ông, ngoài việc thấy được bức tranh đời thêm hương thêm sắc, còn nhận ra nỗi đau thương hay niềm bất hạnh qua thi ca, tồn tại thứ khát vọng giúp con người không chỉ cảm thông chia sẻ mà còn mang đậm ý nghĩa vượt qua! Xin trích câu của T. S. Eliot viết về nhà thơ của cõi thi ca thay cho lời kết: Và nhà thơ không biết phải làm gì trừ khi ông ta sống trong những gì không chỉ hiện tại, mà là khoảnh khắc hiện tại của quá khứ, trừ phi ông ta ý thức, không phải về những gì đã chết, mà về những gì đã sống.[3]

 
 

Kỷ niệm 100 ngày mất của nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ (1952-2021)

Lê Lạc Giao

___________________________________________
[1] Âm Tuyết Đỏ Thời Gian – Thơ Nguyễn Lương Vỵ . Văn Học Xuất Bản Tháng 8/2019
[2] Tuyển Tập Thơ 50 Năm (1969-2019) của Nguyễn Lương Vỵ - Văn Học Press 2020
[3] The Essential T. S. Eliot – Selected and With An Introduction by Vijay Seshadri P. 168 – Harper Collins 2020.