NHỮNG VIÊN GẠCH LÓT ĐƯỜNG


 
 
 

2. Cô Nàng Lưu Lạc

Khi đám tang của cha nàng đã qua đi Phương Tâm, cháu gái của đội Cán mà ông không thường gặp từ ngày ông lấy vợ theo đạo Chúa và làm gia tộc bất mãn, mới thấy tâm hồn nàng cũng như căn nhà cũ kỹ đơn sơ ấy trở nên trống rỗng một cách đáng sợ vì không còn hình bóng của một người cha hiền lành, nhân hậu, trung thực và luôn hết lòng chăm lo vợ con. Khó tìm được một người cha cần cù hy sinh cho gia đình như thế. Mỗi lần nghĩ đến cha, nàng lại khóc.
Khi nỗi xúc động đã trôi qua, nàng nhớ lại trong đám tang của cha, ông hương quản trước kia là bạn kết nghĩa có đến xin vào phúng điếu người quá cố một mâm trái cây ngũ quả, một cặp nhang cao ba tấc, một hộp hương vòng và một hộp hương trầm nhưng chú nàng đã ngăn không cho ông ta vào, trong lúc em trai nàng giận dữ chạy vào nhà lấy cán cuốc chưa tra lưỡi định ra ăn thua đủ với ‘phái đoàn’ của ông ta. Sau cùng ông hương quản phân bua đôi điều rồi phải chịu rút lui vì cả xóm đều lên tiếng nguyền rủa người bạn bội tín và đạo đức giả để bênh vực người làng giềng vừa mới mất. Trên đường về ông ta đem đồ cúng dâng cho thần rắn trong miễu rắn Linh Xà của làng. Nghe nói sau đó thần rắn đã cho ông ta bán được một lô gỗ cẩm lai với giá cao và lãi to. Ông tự hào thần rắn giúp ông vì ông là người trung hậu !?
Chiều hôm đó, có một thanh niên da ngăm, mắt nhỏ, môi dầy, mũi cao đến tự xưng là Chí Cường đang học nghề gỗ và phụ việc với cha nàng đến xin phúng điếu. Trong lúc ngồi uống nước, Chí Cường xin phép sau này được đến thăm tang gia cho phải đạo thầy trò. Lúc đó Phương Tâm định hỏi ý chú nàng nhưng chú nàng (cũng là anh họ của Đội Cán) đã vào buồng nghỉ ngơi sau một đêm thức trắng bên quan tài. Lúc quay ra chỗ đặt quan tài, thấy chàng thanh niên có vẻ chân thành nên Phương Tâm cũng đồng ý.
Chí Cường tuy không đẹp trai lắm nhưng có một lá số tử vi rất đặc biệt. Thầy tử vi nói cách quý của lá số ấy theo sách vở là ‘Lợi khẩu hoạnh tài/hoạn quan đắc chí’. Thầy tử vi nheo một mắt nhếch mép giải thích với vẻ châm biếm: “Hoạn quan đắc chí” bằng bốn câu thơ đúng hơn là bốn câu vè: “Hoạn quan đắc chí/ Của quý hãy còn / Có chỗ dùng luôn/ Lại còn được thưởng.” Rồi Thầy tử vi nói tiếp:
“Vả lại số cậu có sao Thái âm chiếu mạng, lại có Đào hoa, Hồng đào hộ chiếu nên số cậu hoá ra ‘có lộc’ bất ngờ tài lộc và thực lộc từ các mệnh phụ bởi việc âm dương giao hòa hay giao chiến mà phần thắng luôn thuộc về cậu. Chắc hẳn cậu có ‘đồ chơi’ gì đặc biệt, hoặc chính cậu có sự thiên phú nào đó nên là một cao thủ trong chốn phòng the, nơi hoa dinh cẩm trận …” Thế rồi sau đám tang cha của Phương Tâm, Chí Cường đã ghé lại thăm hỏi Phương Tâm và mẹ nàng ba lần. Lần nào cũng có chút lễ vật cho người chết và nén hương thắp trước bài vị và quà cáp cho người sống. Chàng mặc y phục tầm thường như thợ xẻ gỗ, nhưng quà cáp đều thuộc loại đắc tiền như lụa Hàng Châu, vải xoa Pháp, sâm cho mẹ nàng, trái cây và các món ăn ngon. Hôm qua chàng vừa mới tặng nàng một cái nhẫn vàng và chiếc vòng tay cẩm thạch.
Chí Cường khéo kể chuyện cả những chuyện làm rừng làm gỗ, lâu lâu lại pha chuyện cười, ngôn ngữ uyên bác, có lúc lại thích tự trào và mỉa mai, hạ nhục chính mình. Sau mấy lần lui tới, theo kế hoạch của chàng là cuộc hẹn hò cùng nàng đi chơi đêm trăng dọc bờ sông mà nhiều chỗ cây cỏ um tùm kín đáo. Lần ấy chàng đã tỏ tình với nàng, nói chung là kế hoạch thành công và chàng đã tặng nàng một chiếc nhẫn bằng vàng. Chàng định lần sau sẽ mời nàng đi xem hát ở đình làng. Trong những dự tính ấy, có việc chàng nhờ ngưới mai mối cưới nàng rồi đưa nàng lên Hà Nội tìm việc và thuê nhà để sống chung không cho cha chàng hay biết. Dù thầy tử vi có nói gì, chàng vẫn muốn có một gia đình chính thức còn chuyện trăng hoa ngẫu hứng nếu có được càng tốt chẳng làm thiệt cho ai, chàng ngụy biện như thế.
Hôm đó Phương Tâm đang chuẩn bị y phục để tối nay đi xem hát với Chí Cường, em trai nàng làm nghề đúc đồng trong làng, hớt hải chạy vào kêu to:
“Chị Tâm ơi, chị gặp phải thằng chó đểu rồi. Em phải đấm vào mặt cái thằng lưu manh, xỏ lá, lừa gạt ấy…”
“Nhưng em đang nói đến thằng nào vậy?” Phương Tâm lo lắng hỏi.
“Chị nghe cho rõ đây: Thằng đểu đó chính là Chí Cường. Chị có biết hắn là ai không?”
“Là ai?” Phương Tâm nghẹn ngào hỏi.
“Hắn là con trai của thằng hương quản mà ngày xưa bố hắn hứa với bố mình sẽ tác hợp hắn cho chị. Thế mà hôm nay bố con hương quản đã làm sự sỉ nhục và đùa vui trên nỗi đau khổ của gia đình mình.”
Phương Tâm kinh ngạc nhưng cũng có đủ vô tư để biết rằng cái chết của cha nàng không do Chí Cường gây ra mà do cha chàng. Còn việc chàng giấu giếm thân phận có thể là vì muốn sửa chữa lại lỗi lầm của cha mình. Nhưng trong tình huống này khi mà em trai nàng đã nuôi lòng căm thù với gia đình ông hương quản, xem ra nàng khó có thể bênh vực người nàng yêu. Nàng kêu lên như than thở:
“Trời ơi, có chuyện như vậy thật sao?!” Phương Tâm rồi ngồi bệch xuống nhà ôm mặt khóc tức tưởi, “Khốn nạn cho thân tôi, tự dưng tôi thành đứa con bất hiếu mà không biết …” trong lúc em trai nàng nói tiếp:
“Sáng nay có người đến xưởng đúc đặt làm một cái lư đồng mắt cua, ngang ba tấc, hai bên có cặp rồng chầu trái châu tức thái cực bốc lửa trên nắp lư. Lúc đó em đứng kế bên ông chủ lò đúc. Ông chủ hỏi: ‘Hàng này làm cho ai?’ Người khách nói, ‘Làm cho ông hương quản và cậu con trai duy nhất Chí Cường, vậy nên ông phải bảo thợ làm cho thật mỹ thuật vào.’ Khi khách đặt cọc tiền và đi về, ông chủ bảo em, ‘Lạ thật, thằng Chí Cường từng ở trong chùa đến khi ra khỏi chùa thì gái goá không tha, gái già không bỏ thế mà lúc nào trong nhà nó cũng khói hương nghi ngút với nào là tượng Phật, tượng Lão Đam, tượng Quan công, tượng Bà Ngũ Hành, rồi tượng Thần Tài, tượng ông Địa… Em kinh hoàng vội chạy về đây báo cho chị biết.”
Lúc đó, Phương Tâm sụt sùi nói theo:
“Chắc rằng linh hồn bố còn linh thiêng tránh cho chị sự oan trái này. Chị cũng phải cám ơn em nữa.”
Lúc chiều tối, khi Chí Cường đến, em trai nàng ra ngăn lại không cho hắn vào đồng thời tố giác hành vi dối trá ám muội của hắn, rồi từ trong nhà Phương Tâm ném túi bụi ra ngoài sân nào là lụa Hà đông, gấm Thượng Hải, xoa Pháp. Biết “thân phận bị tiết lộ”, Chí Cường phân bua một lúc, trút hết mọi sai lầm lên ông hương quản bố mình, giải bày tấm lòng yêu đương chân thật, còn nói sẽ vào chùa tu để minh chứng lòng thành. Nhưng em trai Phương Tâm đã hét to:
“Làm sao có tình yêu chân thật trong sự dối trá. Anh đã lợi dụng cảnh nhà tôi tang chế, tâm trạng rối bời để quyến rũ chị tôi. Cha anh đã làm nhục cha tôi, bây giờ đến lượt anh còn muốn làm nhục chị tôi sao? Anh về đi đừng bao giờ trở lại.”
Biết không thể biện minh thêm được gì sau cùng Chí Cường chuồn mất. Em trai Phương Tâm ra sân gom của cải bất nghĩa đem đến một xóm nghèo của ngôi làng bên cạnh cho mấy người nghèo trong xóm đó. Phần nàng nàng giữ lại chiếc nhẫn, cái vòng cẩm thạch và một vài món quà nhỏ của Chí Cường vì nàng thật lòng yêu chàng và nhận thấy chàng không hẳn là người không có chút chân tình. Chẳng qua cha chàng là người ác tâm, đã gây ra cái chết cho cha nàng.
Tại sao Chí Cường lại tìm đến nhà Phương Tâm trong lúc gia đình có tang? Vì chỉ khi sự cố xảy ra chàng mới biết việc hứa hôn của cha chàng với người bạn từ thủa thiếu thời. Chàng cho rằng việc cha chàng làm xét về quan điểm xã hội là đúng vì chàng hiểu rõ lẽ nhân quả và nghiệp báo trong thời gian tu học Phật pháp nơi một Hòa thượng nhưng chàng cho rằng thái độ phũ phàng và cao ngạo của cha chàng có phần quá đáng. Vốn Phật học của chàng đã biết dung hoà một vài quan điểm tân tiến. Vả lại khi gặp được Phương Tâm, thấy nàng khả ái đáng yêu bởi nàng có một nhan sắc mặn mà ít thấy nơi thôn dã, chàng tìm cách sửa chữa tình thế để chiếm được nàng.
Từ biến cố đó, Phương Tâm buồn bã và tuyệt vọng vừa bởi nỗi đau mất cha vừa bởi nỗi khổ mất tình. Nàng nghĩ mình phải rời mảnh đất quê hương để lên Hà Nội kiếm việc làm, một công việc tầm thường nào đó để tránh nhìn lại những kỷ niệm đau buồn: nàng còn có em trai ở nhà, gia đình chú nàng cũng ở gần đấy nên nàng không phải lo lắng lắm khi xa nhà. Vả lại từ sau ngày bố nàng mất, bệnh lao của mẹ nàng đã giảm nhiều nhờ thuốc thang đầy đủ.


@@

Tháng giêng năm sau, nàng rời nhà ra đón xe từ làng Muội, từ Bắc Giang về Hà-nội. Lúc đi bộ ra bến xe, nàng đi ngang qua một xứ đạo, từ xa có thể trông thấy tượng Đức Mẹ Lộ Đức mà dân có đạo nói rất thiêng, nàng dừng chân hướng về Mẹ xin Mẹ che chở phù hộ cho nàng. Đến Hà Nội, nàng thuê một chỗ nghỉ trọ ở bến xe ít ngày để đi tìm việc.
Ngày đầu tiên đi lang thang trong Hà Nội tìm việc sắp hết mà không có kết quả gì: nàng đã vào các tiệm ăn xin phụ bếp, rửa bát đều bị từ chối vì đã đủ người; nàng vào trong chợ xin bán hàng thậm chí xin khuân vác cũng bị từ chối. Dù việc khuân vác vẫn luôn cần người, nhưng người ta thích thuê đàn ông có sức khoẻ hơn. Tóm lại ở đâu Phương Tâm cũng bị từ chối.
Xế chiều, Phương Tâm đi vào một góc công viên, giở cơm nắm mà cô mang theo ra ăn với mấy miếng măng kho, trước khi quay về nhà trọ. Bỗng có một thằng bé ăn mặc sạch sẽ đến đứng nhìn. Cô ngước lên định đuổi nó đi, nhưng thấy khuôn mặt nó sáng láng, đôi mắt ngây thơ hiền hậu như đôi mắt thiên thần nên nói: “Em đói không, ăn một miếng với chị đi.”
Thằng bé nở một nụ cười thánh thiện đáp:
“Cám ơn chị, em không bao giờ đói, không bao giờ khát,” nó ngừng lại vẻ bí hiểm nói tiếp, “Có phải chị đi tìm việc cả ngày mà chưa có ?”
“Sao em biết ?” Phương Tâm giật mình hỏi nó.
“Những gì em muốn biết, em đều có thể biết … Vả lại nhìn vào tâm hồn chị lúc này như nhìn vào một tấm gương soi, em biết ngay. Sáng ngày mai chị ra Ngã tư Sở sẽ có người thuê chị.” Nói xong nó bỏ đi và trong nháy mắt đã khuất sau một cây to. Phương Tâm vô cùng kinh ngạc tưởng đã thị kiến một thiên thần mà Đức Mẹ Lộ Đức sai đến gặp nàng, nàng chạy theo nhưng không thấy cậu bé đâu cả chỉ thấy một mùi hương của hoa chanh, hoa bưởi phảng phất ở xung quanh. Sáng hôm sau, nàng hỏi đường ra Ngã tư Sở. Vừa đến nơi nàng thấy đã có hơn một chục người đứng láo nháo chờ có người đến thuê làm việc trong ngày hay dài hạn. Đang băn khoăn lo nghĩ trong lòng thì một chiếc xe hơi từ từ chạy tới. Bác tài xế thò đầu ra khỏi ca-bin xe kêu nàng lại và hỏi: “Có muốn kiếm việc làm không ?”
“Có ạ, nhưng là việc gì vậy bác ?”
“Làm người giúp việc cho nhà giàu. Tôi là tài xế mà bà chủ ấy sai ra tìm người…”
“Vâng cháu xin làm ạ. Cháu giỏi chịu cực lắm chú ạ.”
“Vậy lên xe tôi chở về gặp bà chủ rồi làm luôn.”
Phương Tâm vui mừng leo lên xe. Nàng luống cuống đụng đầu vào cả mui xe. Chiếc xe chở nàng đến một biệt thự sang trọng của ông bà Nguyễn Tri Tân ở phố Lê Thánh Tông, Quận Hoàn Kiếm. Bà Tri Tân lúc ấy đang ở nhà, bà hỏi cô một vài câu về lý do cô đến Hà Nội và phải đi xin việc. Bà biết ngay những lời Phương Tâm nói là chân thật nên nhận cô ở lại giúp việc. Có một lúc bà nhìn kỹ nàng và trong lòng tự nhủ, “Con bé này nhà nghèo sao mà đẹp thế…” Rồi bà lại nhớ đến quá khứ của bà khi chưa lấy chồng, bà cũng là một cô gái nghèo và đẹp. Cuối buổi nói chuyện ngắn ngủi, Phương Tâm xin bà chủ cho bác tài chở đến nhà trọ lấy hết hành lý và ở lại làm tớ gái trong nhà ông bà Tri Tân.
Gia đình thương gia Tri Tân là một gia đình giàu có nhưng cách ăn ở rất lạ lùng. Ông Tri Tân thường xuyên ở Hải Phòng để trông coi việc xuất khẩu nông sản, ông còn tham gia hội Khổng học ở đó. Bà vợ ông làm chủ một tiệm vàng ở chợ Đồng Xuân và có chân trong hội chấn hưng Phật giáo, sau này còn lên làm chức phó. Hai đứa con thứ một gái, Giáng Vân và một trai Mạnh Hà đi học một trường lớn tại Hà Nội. Giáng Vân có khuôn mặt thanh tú mũi cao giống mẹ dĩ nhiên tươi trẻ hơn, môi hồng da trắng, dáng cao hơn mẹ cô khoảng ba phân trong khi bà Tri Tân đậm người hơn. Còn người anh cả Mạnh Thông hai mươi bảy tuổi nằm bệnh viện chưa về. Mỗi người trong nhà này là một thế giới riêng, một hòn đảo cách nhau bởi những eo biển sâu. Khi gặp nhau, họ ậm ờ vài tiếng rồi ai làm việc nấy. Những trao đổi trong bữa ăn thì chừng mực vừa phải như thể ai cũng phải lo giữ ý tứ. Sau này khi đã thân quen, Giáng Vân nói chuyện với Phương Tâm nhiều hơn với mẹ mình.
Tuần lễ đầu tiên, Phương Tâm làm việc nhà như quét dọn, giặt giũ, nấu nướng dưới sự hướng dẫn của bà chủ. Sau đó bà nói với cô:
“Vài hôm nữa, cậu cả ở bệnh viện về, công việc của cháu lúc đó chủ yếu là chăm sóc cho cậu cả, nhắc cậu cả uống thuốc và lo việc ăn uống cho cậu. Việc trong nhà bà sẽ thuê thêm một đứa khác. Chỉ khi nào cháu rảnh thì phụ với nó một tay.” Phương Tâm vâng dạ rồi lại lo làm việc. Hôm cậu cả Mạnh Thông về, bà chủ dẫn cô vào phòng cậu cả mà cô đã dọn dẹp hôm trước để giới thiệu. Lúc đó cậu cả ngồi khoanh chân trên giường, trên đùi đặt một miếng ván mỏng kẹp một tờ giấy trắng: cậu đang dùng bút chì vẽ vời trên giấy. Nghe mẹ nói cậu chỉ ngước nửa con mắt nhìn lên nói nhát gừng: “Thế à… tên gì? … sao cũng được.”
Khi bà chủ đi rồi, Phương Tâm đứng như trời trồng giữa phòng, nhìn cậu cả người gầy guộc, dáng cao, da xanh trắng, mặt thanh tú, môi tái, tóc đen dài có mấy sợi quăn, ria mép lún phún. Một lúc sau, cậu đặt bút chì và tấm ván xuống giường thở dốc, nhìn đăm đăm vào nàng rồi nói: “Ồ nãy giờ em vẫn còn đứng đây à; tôi mãi vẽ mà quên mất.”
“Cậu có sai bảo em điều gì và trưa nay ăn gì xin cho em biết để chuẩn bị?” Phương Tâm xẵng giọng đáp.
“Tôi chắc mẹ tôi không cho em biết tôi bệnh gì. Tôi là một hoạ sĩ bị lao phổi thời kỳ thứ hai, em nghe rõ chưa? Nhưng tôi thích vẽ khi nào còn có thể vẽ được. Một tháng vừa qua nằm viện, tôi nhớ giá vẽ và bút vẽ lắm… Còn bây giờ nếu em thích được sai bảo thì tôi nhờ em mở cái hòm to kia ra treo những bức tranh cất trong đó lên những cái đinh có sẵn trên tường cho thành căn phòng của một hoạ sĩ. Sau đó đến bữa ăn trưa cho tôi ăn món gì cũng được.”
Phương Tâm làm ngay, trong lòng không khỏi bực dọc bởi cách nói mà nàng cho là xách mé. Sự bực dọc ấy còn pha thêm nỗi thẹn thùng vì mấy bức tranh phụ nữ khoả thân khiến cô bối rối không nhận thấy trong lúc cô leo lên ghế để treo tranh, Mạnh Thông đã lấy ngay tờ giấy mới và phác hoạ những đường nét của cô gái hiện rõ ra trong từng động tác. Trên cùng một tờ giấy có năm mẫu phác hoạ, một mẫu ở giữa tờ giấy và bốn mẫu ở bốn góc. Chàng sẽ sử dụng chúng cho những bức tranh Thiếu nữ du xuân sau này với những động tác với tay để hai lộc (từ mẫu với tay để treo tranh của Phương Tâm v.v.) hay cúi người để ngắm hoa v.v… Khi Phương Tâm ra khỏi phòng, Mạnh Thông còn tiếp tục sửa chữa mấy bức phác thảo. Một giờ sau chàng ngả lưng lên giường nằm nghỉ, để mặc tấm ván trôi khỏi tay chàng rơi từ giường xuống đất vì lúc đó chàng lên cơn mệt.
Đến lúc chính ngọ, Phương Tâm bưng cái khay đựng bữa ăn trưa cho Mạnh Thông với thịt bò xào cà chua, cơm gạo Nàng hương, thịt gà giò rô-ti, một ly sữa dê và một trái táo tây. Đặt khay xuống bàn ăn xong, cô quay lại nhìn cậu cả trên giường hình như đang ngủ, những cái cúc áo sơ mi cởi ra có lẽ vì trời nóng để lộ một bộ ngực lép xanh xao nổi rõ những cái xương sườn. Cô rùng mình khi thấy nó giống với bộ ngực của Chúa treo trên thập tự giá mà khi còn bé nàng thấy trong một nhà thờ và bỏ chạy vì những dòng máu trên mình Chúa làm cô kinh sợ. Đang phân vân không biết có nên đánh thức cậu cả dậy không, thì Mạnh Thông đã mở mắt ra ngạc nhiên nhìn cô nói:
“Tâm nhìn lén gì tôi thế… chán lắm phải không bởi thân thể bệnh tật này chẳng gợi lên chút mỹ cảm nào cả …”
“Không, em không dám nhìn lén đâu … Chỉ muốn gọi cậu dậy dùng bữa. Bây giờ cậu dậy rồi em xin phép xuống nhà.” cô khó chịu nói vì thấy cậu cả gọi tên mình. “Khoan đã, tôi cũng đã nhìn lén Tâm. Xem này.”
Lúc này chàng đã ngồi dậy, bước xuống giường và cúi người lấy cái tấm ván rút tờ giấy vẽ ra khỏi kẹp, đưa cho Phương Tâm xem trong khi chàng đã ngồi vào bàn trước khay thức ăn bổ dưỡng dành cho người bệnh. Cô cầm lấy ngắm nghía năm hình cô vẻ phác trong đó, mỗi hình một tư thế, nửa tin nửa ngờ :
“Em mà như thế này sao?”
“Như thế đấy, nhưng hình vẽ có thể xấu hơn cũng có thể đẹp hơn thực tế khi nó đạt được cái lý tưởng của hội hoạ.”
“Em không tin.” nàng giả vờ chối.
“Không tin cũng được, nhưng tôi thấy Tâm có đủ điều kiện về khuôn mặt cũng như dáng người để làm mẫu cho tôi vẽ tranh nuy. Tôi thuê đấy, Tâm đồng ý không.”
“Tranh nuy là gì?”
“Tranh nuy là tranh của người không mặc y phục để phô bày tất cả cái đẹp của cơ thể mà Thượng đế đã ban cho con người nhất là người nữ.” Vừa nói Mạnh Thông vừa chỉ tay lên hai bức tranh khoả thân trên tường.
“Không đời nào…” rồi bất chợt cô tức giận vì nào là ‘tranh nuy’rồi nào là ‘thuê mình ngồi làm mẫu’hoá ra anh chàng này đang có lòng tà vạy với nàng, nàng nói.
“Cậu coi thường em quá, em cấm cậu đấy…”
Nói xong nàng vùng vằng bỏ đi, nhưng ra đến ngoài hành lang nàng lại hối hận vì bà Tri Tân có dặn cô đừng làm cậu chủ phiền muộn sẽ ảnh hưởng không tốt cho căn bệnh. Nhưng nàng quyết không quay vào. Nàng nghĩ sẽ đợi lát nữa khi dọn khay mình sẽ xin lỗi và nói một vài câu nhẹ nhàng cho qua chuyện, chứ đời nào mình lại chấp nhận lõa thể trước một người đàn ông bất nhã. Thế nhưng nàng không biết rằng khi hay bực bội, cay cú về một người nào đó, ta thường đi ngược với ý định ban đầu của mình, vì nó bắt ta thường nghĩ ngợi về người đó và rồi như Mạnh tử nói nhân chi sơ tính bản thiện, cái phần ‘bản thiện’ ấy một lúc nào đó xuất hiện, chen vào sự nghĩ ngợi ấy và có thể biến cảm xúc khó chịu thành một tình cảm yêu thương.
Một giờ sau khi Phương Tâm quay lại để dọn dẹp bữa ăn, cô không thể không cảm động khi thấy cậu cả ngồi trên giường mãi mê ngắm nghía hình cô trong bức phác thảo vì cô đinh ninh cậu cả đã ngủ trưa theo thói quen của người già và người bệnh. Sự chiêm ngưỡng nghệ thuật ấy rất gần với thái độ đam mê. Cô đến gần nói lời xin lỗi và được cậu cả sai cô buổi chiều đi mua những vải bố, tuýp màu, cọ vẽ, bay vẽ, khung tranh mà cậu đã liệt kê bằng bút chì trên một tờ giấy trắng, với địa chỉ các cửa hàng.
Hà Nội chiều mùa thu trời dịu mát, sau khi hỏi Giáng Vân về đường đi nước bước, Phương Tâm ra đi mua hàng cho cậu cả đồng thời ngắm vẻ đẹp của Hà thành, không còn hớt hải như hôm đầu tiên tất tả đi tìm việc giữa lòng Hà Nội đến nỗi không nhận thấy nó ra sao. Lúc ngồi trên xe kéo về nhà cô mỉm cười tự hỏi, “Không biết cái thế giới hội hoạ có gì hấp dẫn khiến người ta bỏ quên thực tại thô ráp và trần trụi của cuộc đời thường.” Nhưng rồi lòng thương cảm cậu chủ đã cho cô một câu trả lời rất đúng: “Cuộc đời thường bệnh hoạn của cậu cả là điều cần phải được lãng quên trong nghệ thuật.” Đồng thời cô cũng cảm thấy trong sự thương cảm ấy của cô có pha thêm một cảm xúc hân hoan lạ lùng và khó hiểu.
Chiều hôm ấy trong lúc Phương Tâm đi mua dụng cụ vẽ, Giáng Vân đến thăm anh trong phòng, cô nói:
“Sao anh không để em đi mua hộ cho nhỡ cô ấy không biết phân biệt hàng tốt với hàng xấu, màu của Ý với màu của Nhật …”
“Không sao đâu, cô bé khoe anh có một thiên thần luôn đi cùng cô ấy…”
“Anh chỉ nói vớ vẩn…” Giáng Vân cười nói vẻ thông cảm vì từ ngày mang bệnh anh cô ít khi muốn nhờ vã người nhà.
Sau đó khi anh cô nói đến cái chết không tránh khỏi của mình, Giáng Vân ôm lấy vai anh mình khóc nức nở.
Cũng từ hôm ấy, Phương Tâm giúp đỡ cậu chủ biến một góc phòng thành một chỗ vẽ tranh. Nàng phụ dựng giá vẽ, đóng khung, căng vải bố cho cậu Mạnh Thông. Những lúc rảnh rỗi, nàng bác ghế ngồi kế bên xem chàng vẽ. Lúc đó chàng vừa vẽ vừa giải thích cho cô một vài kỹ thuật pha màu, cách bố cục, cách cầm cọ, cầm bay như thể nàng là một học sinh trường vẽ. Chàng còn tập nàng vẽ trên những mảnh vải bố còn thừa và khen nàng vẽ tranh có nét. Xem ra cô cũng sáng dạ và có năng khiếu. Những lúc chán vẽ cô ngồi tập đánh máy trên cái máy đánh chữ cũ mà ông Tri Tân để lại khi ông ra Hải Phòng với một cái máy mới. Mạnh Thông trở nên vui vẻ với ý nghỉ mình có một học trò và những ngày cuối cùng của đời mình hóa ra không vô ích.
Rồi hai bức Thiếu nữ du xuân đầu tiên cũng được vẽ xong, và cũng giống như những bức tranh treo trên tường, tông màu tím than là màu áp đảo trong các bức tranh, cả cái áo dài của cô thiếu nữ cũng có màu tím than. Nhờ có mấy màu sáng như hồng, vàng, xanh lục vẽ hoa lá nên còn có chút gì gọi được là mùa xuân. Nàng thấy hình bóng mình trong tranh đẹp thật nhưng giữa một khung cảnh tạo cảm giác buồn, như thể chính cô đang ‘du xuân’ giữa một cảnh giới khác. Chàng trân trọng đặt chúng bên trên cái tủ chè và hai người đứng sát bên nhau ngắm nghía. Có một lúc Mạnh Thông cầm bàn tay xinh đẹp của nàng áp vào ngực chàng. Chàng nói:
“Để sau khi đi Hải Phòng thăm bố tôi và nghỉ ngơi ở ngoài ấy độ mười ngày, tôi sẽ vẽ tiếp cho cô những bức còn lại.”
“Thôi không cần đâu cậu cả ạ.”
“Sao không cần, nếu nghệ sĩ không cần đến cái đẹp thì sao có thể sáng tạo được vì suy cho cùng tác phẩm chỉ là sự mô phỏng cái đẹp mà Thượng đế đã đặt vào tạo vật?”
Phương Tâm cảm động trước câu nói ấy: rõ ràng cậu chủ không khinh mình là tôi tớ như mình vẫn nghĩ mà còn để ý đến mình chí ít là với cái phiên bản của mình trong thế giới nghệ thuật. Phần mình dường như cũng có sự quyến luyến với cậu chủ.Ý nghĩ này làm cô đỏ mặt.


@@

Chiếc xe hơi chở bà Tri Tân và Phương Tâm ngồi ở băng ghế sau, Mạnh Thông ngồi trước cạnh tài xế khởi hành từ sáng sớm đi Hải Phòng, lúc đó khoảng bảy giờ. Hơn một giờ sau họ đã đến Hải Dương, bà Tri Tân bảo ghé vào một quán phở để ăn sáng. Sau đó bác tài cho xe chạy vào một lối rẽ bên ngoài thị xã, khoảng mười phút sau, chiếc xe dừng lại trước một cổng sắt rộng. Có một nhà sư già đứng bên ngoài cổng chờ xe đến. Bà Tri Tân xuống ngay nhưng bảo Phương Tâm và Mạnh Thông cứ ngồi lại trong xe. Bác tài cũng xuống xe mở cốp lấy ra những hộp bánh trà, khay trái cây, hương hoa, nến đỏ. Nhà sư bước đến chắp tay chào bà Tri Tân, và họ trao đổi ngắn với nhau. Hôm nay là ngày khánh thành ngôi chùa mà bà cho xây dựng ở giữa điền trang gần trăm mẫu đất của vợ chồng bà. Nhà sư ấy có trong Hội chấn hưng Phật giáo đã lên trước mấy ngày cùng một số nhà sư khác để chuẩn bị buổi lễ ký thác ngôi chùa cho Tam bảo. Khi lễ vật đã đưa xuống xe xong, bác tài chào bà Tri Tân và nhà sư, bước lại vào xe, cho xe quay đầu ra xa lộ nhắm hướng Hải Phòng đi tiếp. Lúc ra đến đường lớn, bác tài nói với Mạnh Thông:
“Tôi thấy ông sư này rất quen, giống như vị sư dạy các tăng sinh ở một chùa lớn tại Bắc Giang, quê tôi nơi tôi biết có mấy tay phá phách đến tu học…”
“Bác thắc mắc làm gì chuyện ấy. Phật pháp có nói ‘Chỉ cần đồ tể buông dao, sẽ có ngày thành Phật’.”
Chàng nói vô tư vì biết mẹ mình đã đến với đạo Phật để tìm sự an ủi trong cảnh cô đơn hơn là cầu tìm sự giải thoát. Trong lúc bố chàng ở Hải Phòng không thiếu những cô nhân tình nhỏ tuổi, có khi còn nhỏ tuổi hơn cả con ông. Đàng sau sự giàu sang của một người đàn ông khoẻ mạnh, cường tráng luôn luôn có một cạm bẫy của tình dục phóng đãng. Ngừng một lát để điều khiển vô-lăng qua một khúc quanh bác tài nói tiếp, “Tôi chỉ phục cách tổ chức tu hành trong đạo Thiên Chúa. Nó làm cho kẻ xấu khó len lỏi vào sâu trong hàng giáo phẩm. Tôi cũng phục chủ trương một vợ một chồng mà người có đạo phải tuân thủ.” “Thế à, vậy bác có cùng ý nghĩ giống tôi, tôi vẫn mong có ngày được làm con Chúa” Rồi chàng quay qua Phương Tâm cười và nói tiếp“Lúc đó em có chịu theo đạo với tôi không?”
“Cậu chỉ thích nói đùa thôi…” Nàng đáp lại.
“Sao lại đùa, tôi đã gặp Chúa trong hội họa thời Trung Cổ khi ngắm các bức họa mô tả các truyện tích trong đạo. Một lần khi nắm được cái thần trong những bức tranh đó, tôi chợt thấy mình cũng có những tâm tình của những người họa sĩ ngày xưa như sự chiêm ngưỡng, lòng sùng kính, tin yêu và tôi ao ước được làm con Chúa như họ. Người ta gọi đó là sự đồng cảm trong nghệ thuật.” Sau đó cả ba im lặng như trầm tư và nhìn bên ngoài cửa sổ xe ánh mặt trời ban mai rực rỡ đang lên cao dần trên những cánh đồng lướt qua và lùi lại sau lưng họ, trên những làng xóm ẩn mình trong những vườn cây rậm rạp. Gần hai giờ sau, chiếc xe chạy chậm lại để vào thành phố Hải Phòng. Mười phút sau chiếc xe chạy vào cổng một biệt thự, nơi ở thường xuyên của ông Tri Tân từ khi ông rời bỏ Hà Nội. Người quản gia bố trí cho Mạnh Thông và Phương Tâm ở hai phòng đầu và cuối của hành lang tầng lầu dẫn thẳng đến phòng ngủ của ông Tri Tân. Bên cạnh phòng ông Tri Tân có một phòng nhỏ của quản gia có cửa thông ra ban công bên ngoài dọc theo các căn phòng có gắn cửa sổ. Buổi trưa hôm ấy ông Tri Tân dẫn họ đi ăn cơm nhà hàng vì đã quá ngọ. Hai bố con trao đổi với nhau nhiều việc trong bàn ăn phần nhiều bằng tiếng Pháp, có lúc giọng nói của họ gay gắt pha lẫn lo âu như đang nói chuyện thời sự hoặc chuyện gia đình thế nên Phương Tâm và bác tài không hiểu gì, chỉ im lặng ngồi ăn.
Ngày hôm sau, bác tài chở Mạnh Thông và Phương Tâm đi xuống Đồ Sơn tắm biển. Chàng ngồi băng sau với Phương Tâm, có một lúc nắm lấy bàn tay xinh xắn, nàng để yên không kéo lại. Ở những khúc quanh nàng ngả vào người chàng, để mái tóc chảy dài trên cái áo khoác của chàng miệng mỉm cười duyên dáng. Ra đến bãi biển, Mạnh Thông vẫn không rời cái áo khoác. Chàng không tắm biển vì thể trạng không chịu nổi cái lạnh của nước. Phương Tâm không tắm vì e thẹn. Họ đi tới lui trên bãi cát nhìn đám đông thanh niên nam nữ đang đùa với sóng biển từng đợt vỗ vào bờ cùng với những tiếng rì rào đều đặn. Những cô gái trẻ trung cười nói trong những bộ áo tắm đầy màu sắc phô những cặp chân dài, những đường cong đẹp của cơ thể và những bộ ngực tròn đầy sức sống. Những cậu trai với quần đùi màu tối phô những đôi chân rắn chắc, đôi tay khỏe mạnh và bộ ngực vạm vỡ. Bác tài cũng đã xuống tắm với đám thanh niên nam nữ. Bác tài bơi giỏi thật,nháy mắt đã bơi cách bờ biển mấy con sào.
Dưới con mắt của một hoạ sĩ, Mạnh Thông thấy Đồ Sơn hôm nay là một bức tranh màu xanh gồm nhiều sắc độ: màu xanh của biển, màu xanh bầu trời và màu xanh cây cỏ, hoà trộn với màu vàng của nắng mai và cát. Một dải cát vàng hình vòng cung lốm đốm nhiều màu tươi thắm của những áo tắm chia đôi màu xanh của toàn cảnh. Mạnh Thông và Phương Tâm đang thong thả bước đi trên dải cát vàng ấy. Thỉnh thoảng họ dừng lại nhìn những con chim biển bay lượn trên không hoặc những con dã tràng đang xe cát. Lúc đó Mạnh Thông bỗng dưng buồn bã nói:
“Có lẽ cuộc đời anh cũng giống như những con dã tràng ấy, không để lại dấu vết gì sau một làn sóng lớn.”
“Anh kể lại cho em nghe với để xem có đáng buồn như anh nói không.” Phương Tâm nài nĩ.
Chàng vừa đi vừa kể lại cho nàng những năm tháng đã qua của cuộc đời mình. Trước đây chàng là đảng viên Quốc Dân Đảng thuộc chi bộ Hà Nội. Hơn ba năm trước đây, một vụ xung đột giữa đảng viên Quốc Dân đảng và đảng viên Cộng Sản xảy ra mà có người cho là được CS dàn dựng để loại trừ Quốc Dân đảng. Sau đó trên toàn quốc với sự đồng ý của Huỳnh Thúc Kháng, các đảng viên CS được lệnh mật truy lùng và tiêu diệt Quốc Dân đảng. Mạnh Thông đã may mắn trốn thoát sau khi đã nhìn thấy cái chết của mấy đồng chí bị thảm sát.
Chàng bỏ Hà Nội chạy lên Yên Bái rồi vào sâu trong các bản làng dân tộc để trốn tránh. An uống kham khổ, rồi lam sơn chướng khí và nhất là những đêm thức trắng đau xót cho tiền đồ đã làm cho chàng ngả bệnh. Một người bạn Mường đã đưa chàng vào bệnh viện ở Yên Bái và bác sĩ nói chàng bị lao nặng ngay sau lần khám thứ hai và cho chàng nằm lại để điều trị. Ở đây chàng gặp lại một cô giao liên cao ráo xinh đẹp, trước kia đã hoạt động trong Quốc Dân đảng lớn hơn chàng bốn tuổi; hôm ấy cô đến thăm một người nhà bị bệnh lao. Cô là con gái của Đề Thám với một người thiếp nhỏ nhất trong số hơn năm người thiếp của cụ. Trong lúc cô đang hăng say công tác, gia đình đã kêu cô về nhà, gã cô cho con trai của một ân nhân, một đảng viên CS tên Trần Duy Liệu lớn hơn cô mười lăm tuổi, nhờ vậy sau này cô không bị CS truy sát bởi tội đã theo Quốc Dân đảng. Khi chồng cô bị Pháp bắt giam, cô đã xin một cha Tây cho cô theo đạo để với tư cách một con chiên hờ, cô nhờ ông cha Tây tìm cách vận động để chồng cô được tha.
Tuy vậy vẫn có mấy cán bộ CS cao cấp nhân lúc chồng cô còn bị Pháp giam giữ, lấy quá khứ Quốc Dân đảng của cô ra buộc tội: ngoài tội là đảng viên Quốc Dân đảng, cô còn bị ghép tội làm gián điệp nên cô phải miễn cưỡng dùng mỹ nhân kế để tự bảo vệ mình trước cái chết. Trong lúc vui miệng cô đã khoe với Mạnh Thông mình đã từng trải qua những đêm trong cảnh ‘âm dương giao chiến’ với một vài cán bộ cao cấp trong đảng CS. Lúc đó Mạnh Thông đã trố mắt nhìn xuống chỗ tam giác nổi rõ như một gò đất giữa háng cô và trêu chọc:
“Bây giờ anh mới biết em có ‘cái đó’ của bậc ‘mẫu nghi thiên hạ’…”
“Nghĩa là sao em không hiểu?” cô ấy liền hỏi. “Em chỉ khéo giả vờ; anh nói ‘cái đó’ của em không ngờ lại là chỗ mấy quan lớn CS chiếu cố tấn phong...” Mạnh Thông nói và nhìn lại cái gò hương nhu ở háng cô, bên dưới cái quần lụa đen mà ngày trước chàng đã từng được hưởng thụ.
“Thế anh đã không có phần đầu tiên sao?” cô cười đểu nói vì lúc đó cô đã hiểu cái ý trào phúng của Mạnh Thông.
“Ồ anh chỉ là tên lính cầm cờ ‘chạy hiệu’ lúc mở màn trên sân khấu hát bộ thôi!”
“Vậy anh có tiếc không ?” cô hỏi với vẻ thương cảm trước một người bại trận.
Thật vậy, trước đây khi còn hoạt động trong Quốc Dân đảng, họ đã từng yêu nhau dù tuổi tác hai người chênh lệch. Ngày ấy như một bà chị ‘khai tâm’việc phòng the cho em gái sắp về nhà chồng, chính cô đã khai tâm cho chàng việc người chồng phải làm khi ăn nằm với vợ mình vì một chuyện khó tin là bản năng đàn ông của chàng không dạy cho chàng biết điều đó, có lúc chàng còn nghĩ mình là ‘lại cái’. Nhân đó, cô trêu chọc chàng là “Anh Khờ”.
“Tiếc gì nữa: một Anh Khờ bị lao phổi sắp chết như anh còn gì mà tiếc.” Chàng thở dài nói, đủ để cô ấy biết chàng vẫn nuối tiếc mối tình đầu của họ.
Cô ấy còn đến bệnh viện Yên Bái thăm chàng mấy lần nữa, khi người nhà cô đã được đưa về nhà chờ chết. Họ nhắc lại những kỷ niệm vui buồn sống mãi với mối tình đầu còn lưu lại trong tâm khảm họ.
Sau một tháng ở Yên Bái, bác sĩ khuyên chàng nên về viện bài lao Hà-Nội điều trị. Lúc ấy quân Pháp đã thay quân Tưởng trở lại Bắc Kỳ. Chàng về Hà Nội nằm viện mấy tháng rồi về nhà. Năm nào chàng cũng phải vào viện nằm mấy tháng. Có khi vào rồi ra mấy lần trong chỉ một năm. Nghe Mạnh Thông kể lại câu chuyện cũ, Phương Tâm mênh mang thương cảm. Và không chỉ có thương cảm nàng bắt đầu thấy yêu cậu cả. Có lẽ cậu cả cũng yêu nàng nhưng ai sẽ là người đầu tiên thú nhận tình yêu này, một tình yêu giữa hai kẻ quá chênh lệch trên nấc thang xã hội, cả tiền bạc lẫn danh giá. Tuy nhiên Mạnh Thông đã không kể lại cho Phương Tâm một câu chuyện khác cũng trong thời điểm đó. Trước khi vào bệnh viện Yên Bái, tình cờ chàng đã gặp được Nhà Tiên Tri. Lúc đầu chàng tưởng ông là một linh mục kiêm nhà phê bình nghệ thuật vì ông phân tích cho chàng nghe bức hoạ “La Liberté guidant le peuple” (Thần Tự do lèo lái nhân dân) mà chàng đã xem một phiên bản khi còn học trong trường vẽ và sự phân tích của ông đủ để viết một bài báo dài về bức tranh kiệt tác ấy của thiên tài hội hoạ Eugène Delacroix. Đặc biệt ông nhấn mạnh đến hình tượng vị thần tự do đầu đội nón vải bay phía trên đám đông dân nghèo đi phá ngục Bastille mà ông gọi là thiên sứ của Ý Chí Lịch Sử. Cuối câu chuyện, khi đề cập đến tình hình hiện tại; ông nói với chàng:
“Con đừng buồn vì đây là thời của những người CS, Ý Chí Lịch Sử đang sử dụng họ như một nước cờ để hình thành Đế Quốc Á Đông. Nó sẽ giao chiến với Đế Quốc Tây Phương và phần còn lại của thế giới”
“Vậy có phải Việt Nam sẽ là đế quốc Á Đông đó không?” Mạnh Thông nhìn khuôn mặt hiền hậu với bộ râu ngắn và thưa, trong bộ áo dài màu nâu có cái mũ trùm đầu của Nhà Tiên tri và hỏi lại.
“Không, VN chỉ là người mở đường. Nhưng khi đế quốc Á Đông giao chiến với Đế quốc Tây Phương, lòng tự ái, sỉ diện của các dân Á đông sẽ được tâng bốc, được vuốt ve và thoả mãn vì họ luôn giữ trong ký ức tập thể việc người Tây Phương đã xâm lược đất nước họ và cái ấn tượng mà giai cấp lãnh đạo lúc ấy đang nắm giữ chánh giáo nơi này bị tổn thương ghi sâu trong lòng họ. Đế quốc Á Đông ấy sẽ là một con rồng có hai sừng; nó sẽ tháp vào một thân rồng to lớn và một số đầu rồng khác làm thành một con rồng khổng lồ có bảy đầu và mười sừng. Con rồng lớn đó sẽ truy sát một người Phụ nữ bồng Con. Nhưng bà ấy nhờ ơn trên sẽ trốn thoát.”
“Vậy người CS Việt Nam nói cho cùng cũng chỉ là công cụ cho Lịch sử… và như thế họ sẽ được miễn tố những việc họ làm.”
“Không phải thế vì dù đích đến tối hậu không thay đổi mà ta gọi là Ômêga, lịch sử không phải là con đường một chiều và độc nhất. Có nhiều khả năng, nhiều con đường để ý chí của một cá nhân nhất là của người lãnh đạo hoặc ý chí chung của tập thể một dân tộc chọn lựa. Trách nhiệm lịch sử vì thế vẫn tồn tại và sẽ lên án những ai vì quyền lợi ích kỷ của mình hoặc của tập thể mình chà đạp lên quyền lợi của đa số nhất là của dân nghèo.”
Nói xong Nhà Tiên Tri bỏ đi. Mạnh Thông vội chạy theo hỏi:
“Xin Nhà Tiên Tri cho biết quý danh.”
“Con hãy gọi ta là Phượng Hoàng núi Bát Mô còn được gọi là Phượng Hoàng cầm Sách Thánh” rồi với một nụ cười vừa hiền hậu, vừa bí hiểm ông nói, “Muốn gặp ta và Thầy ta, hãy tìm Sách Thánh mà đọc.”
Sau đó ông đã biến mất sau một bụi cây cao.
Lúc này Mạnh Thông kéo Phương Tâm vào một gốc cây có tảng đá to ngồi nghỉ vì đi bộ trên cát hồi lâu làm chàng hơi mệt. Chàng lấy trong túi áo khoác một cây bút chì và một mảnh giấy định vẽ phác toàn cảnh Đồ Sơn trong nắng sớm. Bỗng chàng thấy cách đó ba mươi mét, trên một bãi cát nhỏ hơn chen lẫn những gộp đá có mấy phụ nữ trông giống các ma xơ đang tắm. Có lẽ họ đến từ một tu viện gần đó. Họ để nguyên áo cánh quần dài màu nâu thẫm khi lội xuống nước. Mạnh Thông liền bảo: “Em đến đấy tắm với mấy ma xơ đi. Tôi phác hoạ xong toàn cảnh ở đây rồi sẽ đến đó sau.”
Phương Tâm nghe theo chạy đến nhập nhóm cùng các ma xơ, trong lúc chàng bắt đầu khoa bút trên trang giấy trắng. Phác hoạ xong một hai cảnh thiên nhiên và những đường nét chân phương của một thanh niên cường tráng vác lưới đi ngang qua bãi tắm, chàng đi đến chỗ Phương Tâm đang tắm. Nàng thích biển và bơi lội trên biển như trên một khúc sông làng Muội. Lúc đó nàng từ biển bước lên, áo cánh quần lụa ướt nước dính sát vào người nàng như ảnh khoả thân sau lớp sương mù, trong khi y phục các ma xơ thẫm màu bên trong các chị còn mặc áo lá nên chỉ giống như những người làm lao động dầm mưa. Tắm xong, các chị vào bờ thay y phục tu hành và kéo nhau về tu viện. Chỉ còn lại một mình Phương Tâm trên bãi vắng, chàng bảo nàng đứng yên trên gộp đá trong năm phút để chàng vẽ phác cho một bức tranh mà chàng sẽ gọi là Thiếu nữ dưới mưa. Khi chàng đưa bức vẽ ấy cho nàng xem, nàng đỏ mặt vì nước và áo quần ướt được phác sơ sài bằng vài đường nét gợn sóng dài và ngắn, trong khi hai đầu vú nàng được vẽ rõ với hai chấm của bút chì đen. Phải chăng chàng cố tình biến bức vẽ ấy thành tranh bán-khoả-thân ? Trong lúc nàng e thẹn nhìn ngắm bức phác hoạ, chàng làm ra vẻ vô tư đưa mắt nhìn ra khơi xa và tưởng tượng mình là một cánh chim cao vút trong không trung nhìn xuống bãi cát. Đường chân trời của phối cảnh di chuyển khỏi mặt đất và hai người chỉ là hai con kiến, hai đốm nhỏ xíu trong không gian vô tận của biển, đất và bầu trời. Trên đốm nhỏ xíu của nàng có hai đốm nhỏ xíu khác màu trái nho trước ngực nàng như hai con vi trùng bám vào con kiến. Làm sao để tin rằng trong cái vũ trụ vô tận này hai người đang tồn tại trừ khi họ bám vào nhau và xác nhận cho nhau bằng động tác mãnh liệt của tình yêu, để tình cảm yêu thương lấp đầy đất trời bao la vô tận... Rồi chàng quay lại thấy nàng ngước lên khỏi bức phác hoạ và nàng nhăn mặt khó chịu với chàng khiến chàng tự nhủ, ‘mình phải tìm dịp bày tỏ tình yêu với cô bé trước khi quá muộn, trước khi mình chết … vì vi trùng Cốc’. Buổi trưa ba người ăn cơm tiệm, sau đó bác tài chở họ đi thăm thú một vài nơi. Nhân dịp này, Mạnh Thông cũng vẽ thêm được một vài căn biệt thự của người Pháp từ trên những địa thế cao nhìn ra biển và một vài cảnh thiên nhiên khác. Đến bốn giờ chiều, họ lên xe về lại Hải Phòng. Sau một ngày đi chơi và hít thở không khí trong lành miền biển, mọi người đều vào giường sớm và một giấc ngủ ngon đang chờ họ. Trong cảnh tĩnh mịch của ngôi biệt thự về đêm, trước khi đi ngủ Mạnh Thông ngồi xem lại mấy bức phác hoạ, vẽ thêm một vài chi tiết, đặc biệt hình vẽ một thanh niên có lẽ là dân địa phương trên bãi biển với những bắp thịt nổi rõ mà chàng sẽ đưa vào bức Chúa bị đóng đinh khi cuối tuần này họ về lại Hà Nội. Cách đó hai căn phòng và trên cùng một hành lang, Phương Tâm trong giấc mơ thấy mình ướt sủng dưới mưa trong bộ y phục tím. Mưa làm màu tím trôi đi dính vào làn da trắng làm nàng cũng màu tím như trong tranh. Khi về đến nhà trong cơn mưa, Mạnh Thông nói với nàng không vội thay áo mới nhưng hãy thoát y đến ngồi bên lò sưởi để làm mẫu cho chàng vẽ một bức khỏa thân. Nàng không chịu, chàng nắm lấy nàng giữ lại, nàng vùng vẫy chạy thoát và giấc mơ tan biến. Ngày hôm sau, buổi sáng Mạnh Thông theo cha chàng đi ra cảng biển ăn sáng với một thuyền trưởng quen biết. Phương Tâm ở nhà phụ nấu ăn với chị bếp. Một giờ trưa chàng về nhà không ăn cơm vào phòng ngay đọc cuốn sách lịch sử tóm lược của Michelet mà sáng nay chàng mới mua trên phố. Buổi tối dùng bữa xong, chàng ngồi lại nói chuyện với bố chàng một lúc nữa rồi hai người cùng về phòng trong lúc chị bếp và Phương Tâm rửa những cái đĩa, bát, mấy cái liễn đựng cơm và súp bằng sứ và bộ muỗng nỉa cùng dao ăn bằng bạc mà họ vừa dùng để ăn tối theo lối Tây. Gần nửa đêm, lúc nằm trên giường đọc sách, Mạnh Thông nghe tiếng chân chạy thình thịch ngoài hành lang rồi Phương Tâm mở cửa xông vào, người run rẩy, mặt mày tái xanh vì sợ, hơi thở hổn hển, lắp bắp nói:
“Có ma…. Phòng em có ma!”
“Em thấy ma ở đâu nào ?” chàng buông sách xuống hỏi.
“Ngoài ban công … một cái bóng trắng qua lại phòng em ba bốn lần.”
Chàng biết ngay đó chỉ là ảo giác. Vả lại chỉ phòng chàng là có treo màn cửa sổ sau cánh bằng kính mà thôi. Vải màn cửa sổ phòng Phương Tâm còn để đâu đó trong tủ vải chưa được treo lên.
“Thế thì về lấy mền và gối qua đây ngủ tạm đêm nay đã rồi mai hãy tính.”
“Em không dám quay về phòng đâu.”
“Thôi được để tôi lấy hộ cho.”
Chàng đứng dậy đi qua phòng nàng, trong lòng tự biết hành động mình không có gì là can đảm vì ‘ma’ chính là bác quản gia bị chứng mộng du. Ban đêm bác mặc áo trắng để người khác không va vào làm bác ngả, có khi từ trên cao. Lúc ôm mền gối ra khỏi phòng Phương Tâm, chàng nghe có tiếng phụ nữ cười khúc khích, rồi tiếng giống như có người đang vật lộn, quần thảo trong phòng cha chàng. Sau đó là những tiếng ái ôi, rên rỉ. Chàng hiểu ngay cha chàng đang hành lạc với một cô nhân tình trẻ đã có hẹn với ông: ông rất hung hãn về chuyện “âm dương giao chiến” lại “được trang bị” bằng những môn thuốc và những “ngón nghề” riêng. Hoá ra những tiếng chó sủa lúc nãy chắc chắn không phải là để sủa ma. Đó là lúc cô nhân tình mới của ông đến hẹn. Khi về lại phòng mình, chàng thấy Phương Tâm đã kéo cái bàn lùi lại để có một khoảng trống trên sàn gỗ gần với giường chàng: nàng định nằm ngủ ở đó. Chàng ném gối và mền lên giường và nói với giọng ra lệnh:
“Giường này đủ hai người nằm, em lên nằm sát vách đi còn tôi nằm ngoài.”
Nàng ngần ngừ đòi nằm trên sàn nhà nhưng chàng thúc giục và bảo:
“Lên đi nào, ngoan nào, đừng cãi.”
“Không, em không ngủ, em ngồi suốt đêm canh coi cậu.”
“Anh xin em đấy, lên giường đi.”
Đến lúc ấy nàng mới leo lên nằm ôm mền quay mặt vào tường. Bóng nàng vẽ trên tường thành một đường cong của một dải núi xa của buổi hoàng hôn, lúc màn đêm buông xuống.
Một khắc sau, chàng cũng tắt hết đèn chỉ để một đèn ngủ ở đầu giường và qua cái chụp đèn xanh dương, ánh sáng toả ra mờ ảo. Chàng lặng lẽ lên giường nằm ngửa nhìn lên trần nhà và nói bâng quơ:
“Em ngủ chưa Tâm?”
“Em sắp ngủ thế cậu định nói gì?”
“Hẳn Tâm nghĩ một người bệnh tật như tôi còn đủ sức làm điều xấu cho em sao?”
“Em không nghĩ thế, đó là lời cậu nói.”
“Từ hai năm nay tôi khi biết mình bệnh nặng tôi cũng biết mình không thể làm điều xấu hoặc điều tốt cho ai; bệnh tật đã tạo ra một sức ì khiến tôi mãi ở lỳ trong sự vô dụng không thể đáp lại kỳ vọng của gia đình đối với tôi, trừ một điều tốt duy nhất là yêu thương gia đình và mọi người kể cả kẻ thù của mình…” Rồi Mạnh Thông chống tay ngồi dậy nhìn thẳng vào đôi mắt mơ màng của Phương Tâm, lúc này đã quay mặt lại với chàng. Nàng không có vẻ gì buồn ngủ, đúng hơn nàng chờ đợi. Chàng nói tiếp:
“Với em cũng thế, anh đã yêu Tâm, đã mến Tâm, em có biết điều đó không?”
“Em biết để làm gì vì cậu là chủ còn em chỉ là tôi tớ …” nàng nói dịu dàng.
“Em không là tôi tớ, anh không là cậu chủ. Em là khuôn mặt nghệ thuật của anh. Anh là nghệ sĩ đi tìm và tôn vinh khuôn mặt ấy.”
Rồi chàng nghiêng mình trên khuôn mặt thanh tú của nàng với đôi mắt có đuôi, mũi thẳng như của người Hy Lạp và môi hình cánh cung và nói tiếp: “Tâm có yêu anh không, nói đi?”
“Vâng em đã thầm yêu cậu…”
“Và anh cũng đã thầm yêu em …”
Nói như thế là đủ, chàng nằm xuống đối diện với nàng, hôn vào mặt nàng, từ tốn vuốt ve những đường cong của thân thể nàng qua lớp áo vải hoa như đang cầm cây cọ vẽ những đường cong lên một khung vải vô hình . Chàng vẫn cho rằng căn bệnh đã làm chàng bất lực, không còn ham muốn chuyện ái tình. Nhưng chàng đã lầm vì khi người ta càng đến gần cái chết thì sức sống càng tìm dịp giãy giụa và vùng lên. Tối hôm ấy, được tình yêu khích lệ, sau một lúc được vuốt ve sờ nắn da thịt mềm mại thơm một mùi cỏ dại và vùng tam giác giữa háng, nàng cảm thấy một khoái cảm như sóng chập chùng tràn ngập thân thể nàng cả trong những góc cạnh sâu kín nhất. Chàng cũng thấy mình nóng lên, phấn chấn, bấy giờ chàng tự nhủ, ‘Mình phải cố lên, phải cho nàng được tận hưởng tình yêu trọn vẹn… mình vẫn còn đủ sức.’ Thêm một lúc vuốt ve nữa để chàng biết chắc mình đã sẵn sàng nhập cuộc, chàng chồm dậy kéo trôi y phục của nàng làm hiện rõ tấm thân nàng màu xanh ngọc phản chiếu màu của cái chụp đèn. Chàng vừa ‘thao tác’ vừa thở dốc trong khi nàng rên rỉ bởi độ rung của niềm hoan lạc đang làm nàng tê dại. Có một lúc chàng phải dừng lại nằm bất động để hồi sức và tiếp tục, nàng thì thầm bảo, ‘Cậu đừng cố, em có đòi hỏi gì đâu?’ Sau lúc nghỉ, nhịp điệu nhún nhẩy lại tiếp tục cho đến khi nàng thảng thốt kêu lên một tiếng kêu hạnh phúc. Một lát sau, Mạnh Thông rời khỏi nàng nằm ngửa ra giường thở dốc thêm một lúc, trong lúc Phương Tâm rúc sát vào người chàng, nàng nói:
“Lần sau anh đừng cố như thế, em chẳng đòi hỏi việc ấy đâu.”
“Anh muốn tình yêu cuối cùng đời anh phải được trọn vẹn…”
“Em biết mình được yêu là đủ rồi.”
“Đến khi nào anh còn có thể…”
Chiều hôm sau trước bữa ăn chàng lấy viên tể ‘sâm nhung’ ra uống. Thuốc mà mẹ chàng đặt làm nơi một lương y và dặn chàng phải dùng thường xuyên nhưng chàng đã không làm theo. Buổi tối khi lại làm tình, chàng thấy ít mệt hơn. Sau đó trong lúc nằm bên nhau chờ giấc ngủ, nàng hỏi chàng: “Anh nói hồi trước người tình đầu tiên của anh khai tâm anh chuyện chăn gối, anh kể lại cho em nghe đi.”
“À ừ, cô ấy là con gái của Đề Thám, một nhà nho trong phong trào Cần Vương với một cô đầu; vì không ở với cha nhưng luôn ở với mẹ nên cô ta rành chuyện đó lắm, tính khí còn bạo dạn hơn đàn ông. Cô ta thấy anh như thầy tu khổ hạnh, mới bảo ‘Để em chỉ cho Anh Khờ mà em yêu biết bổn phận làm chồng với em sau này khi anh muốn cưới em. Vả lại em là con gái một tướng cầm quân thì chí ít chồng em cũng phải biết xông pha nơi hoa dinh cẩm trận vì theo cách của người quân tử ngày xưa, có làm chủ âm-dương nơi phòng the mới có thể làm chủ non sông và bá tánh . Và tam cung lục viện của các vua chúa ngày xưa ngoài ý nghĩa thực dụng còn có ý nghĩa tượng trưng. Có những cung nữ cả đời không gặp mặt vua nhưng ý nghĩa tượng trưng là “vật được vua sở hữu” vẫn luôn tồn tại để cho các cung nữ cô đơn lạnh lẽo có chỗ để tự hào”.
Sau đó hai bàn tay cô ta vuốt ve rồi cô ta hôn, cô ta mút làm anh nóng lên. Một lát sau cô bật ngửa ra kéo anh theo úp mặt vào bộ ngực to mềm như mẹ nằm ôm con cho bú trên bụng làm anh súyt ngộp thở giữa hai quả đồi thơm tho ấy, miệng cô ta thì thầm nói lời động viên, “Hôm nay Anh Khờ làm chùa-một-cột cho em nhờ với. Để em giúp cho. Làm thế này này … Được rồi, vào rồi…phi ngựa vào động Vô nhai đi” Rồi cái hông to khoẻ của cô ta cứ chuyển động lên xuống nhịp nhàng và dứt khoát. Hôm đó anh mới biết cái việc thiếu nghệ thuật nhất trên đời mà những kẻ yêu nhau chân thành và giả dối đều thèm khát”
“Thế thì anh thích quá phải không?”
“Dĩ nhiên là thích vì lúc đó anh và cô ấy yêu nhau lắm. Mối tình đầu tiên của cả hai người mà.”
“Thôi đừng nói vớ vẩn nữa, em ghen đấy…”
Rồi họ ôm chặt vào nhau thủ thỉ những lời yêu đương và đi vào giấc ngủ.
Chiều ngày hôm sau, trong lúc đi dạo trong một công viên gần nhà, một cơn mưa rào chợt đổ xuống Mạnh Thông và Phương Tâm chạy vào hàng hiên một quán nước. Đường phố không còn xe chạy nhưng hai người và những người khác trong quán thấy đi nghêng ngang giữa đường trong cơn mưa một cô gái độ hai lăm tuổi trần truồng đang tắm mưa. Trong quán có tiếng đàn ông cười hô hố, tiếng của một người khác nói, “Sao con Nghiễn điên nhà ở xóm Cảng lại lang thang đến tận đây.” Thì ra một con đàn bà bị bệnh tâm thần. Mạnh Thông suýt cười to thì bàn tay ướt và lạnh của Phương Tâm đã bịt mắt chàng lại. Một lát trời hết mưa hai người lại đi bộ về nhà. Nàng mỉa mai:
“Thấy ‘người đẹp’ khỏa thân như thế anh thích nhỉ”….
“Chuyện thường thôi…” và trong lúc Phương Tâm trợn mắt kinh ngạc, lấy tay véo mạnh vào người chàng, “Thường thôi hả...” Mạnh Thông vẫn nói tiếp, “Hồi ở trong trường vẽ, tuần nào bọn anh cũng được ngắm đàn bà khỏa thân hoặc đàn ông khỏa thân làm mẫu cho sinh viên vẽ. Và lạ lắm, khi người mẫu là nữ thì các cô sinh viên vừa ngượng vừa thẹn còn bọn anh chỉ thấy buồn cười. Khi người mẫu là nam thì ngược lại, bọn anh lại thấy ngượng và thẹn mà ngượng và thẹn là cảm xúc của kẻ bị nhìn ”
“Vậy khi gần em, anh có thấy buồn cười không?”
“Không, bằng con mắt của trái tim anh chỉ thấy mê mẩn em thôi.”
“Anh nói xạo.” Nàng giãy nãy nói. Lúc đó hai người đã về đến nhà.
Tối hôm ấy trời lại tiếp tục mưa, Phương Tâm quấn người trong chăn bông ngủ sớm vì bị lạnh trong cơn mưa chiều. Mạnh Thông cũng muốn cảm lạnh, chàng ngồi ngắm nhìn khuôn mặt xinh đẹp của nàng trong giấc ngủ một lúc, rồi lò mò đi xuống nhà tìm một ly rượu vang uống cho ấm người. Tủ rượu nhìn vào cửa nhà bếp mà chàng thấy còn sáng đèn, chàng rón rén lại gần thấy chị bếp đang dỗ dành cô gái điên đang mặc bộ đồ của chị. Thì ra chị đang dỗ dành bảo nó đi ngủ mai chị sẽ đưa nó về nhà, nhưng nó lắc đầu liên tục miệng ngồm ngoàm mấy cái bánh ngọt nhân mứt. Sau cùng chị bếp nói, “Đi lấy thêm bánh với chị đi, còn có trái hồng, trái táo tây nữa…” Con Nghiễn điên lắc lư cái đầu, ngần ngừ một lúc rồi gật đầu. Chị bếp cầm tay con Nghiễn kéo nó đi. Của đáng tội …những đường nét và ngọai hình nó cũng cân đối. Mạnh Thông nép mình vào bóng tối, núp dưới chân cầu thang nghe ngóng. Chị bếp gõ cửa phòng ông Tri Tân đẩy con Nghiễn vào. Cánh cửa khép lại ngay. Chị bếp quay xuống và lần này cũng không thấy Mạnh Thông trong bóng tối cầu thang.
Đợi cửa bếp đóng lại chàng leo lên cầu thang lại sát cửa phòng bố chàng, có tiếng con Nghiễn bắt đầu tru tréo, mấy giây sau tiếng con chó béc-giê dưới nhà cũng tru lên át tiếng tru tréo của con Nghiễn. Sau đó là cuộc quần thảo, chàng nghe có tiếng vật lộn bên trong phòng. Rồi một sự im lặng khó hiểu trong vài phút và sau cùng là tiếng kêu rên của con Nghiễn như của một con vật bị thương trước một con thú dữ khác khỏe hơn nó. Chàng biết cha chàng là một ‘con ác thú’ trong chốn phòng the và chàng không khỏi thương cảm cho mẹ chàng. Chàng ngồi bệch xuống trước cửa phòng mà Phương Tâm nói là có ma, ôm đầu thổn thức. Sau đó chàng đứng dậy lững thững đi về phòng mình. Lúc đó Phương Tâm vẫn còn ngon giấc, chai rượu vang chàng tìm thấy còn hơn một nửa. Chàng không rót ra ly, chàng muốn say và muốn chết, chàng dốc ngược chai lên và uống hết bỏ chai lăn trên mặt đất, lên giường nằm cạnh Phương Tâm, kêu thần chết bằng những lời của bác tiều phu trong bài thơ của La Fontaine, nhắm mắt lại chờ thần chết đến.
Cách đó mười mét, ông Tri Tân hì hục cày bừa, vầy vọc trên thân thể của con Nghiễn điên, ông đã cho nó uống thuốc kích dâm, nhưng vì tính hiếu thắng ông luôn hành sự trước khi thuốc có tác dụng. Ông tìm trong sự giao chiến ác liệt ban đầu một thứ gia vị đắc thắng cho lạc thú sau đó. Và ông đã cưỡng dâm, đã hành hạ con Nghiễn suốt đêm, nhét vào túi áo nó mấy đồng trước khi bảo chị bếp dẫn nó về bến cảng trong bóng tối chập chờn lạnh lẽo trước buổi bình minh.
Từ đêm hôm đó, Mạnh Thông tránh gặp mặt cha chàng trừ những lúc phải ăn chung và chàng im lặng một cách khó hiểu. Chàng chỉ trả lời nhát gừng những câu ông hỏi. Buổi tối chàng lui về phòng sớm. Cũng có lúc chàng tội nghiệp cho cha chàng đã đánh mất lương tri trước tình dục, nhất là không có khả năng yêu thương và cảm thụ hạnh phúc từ lòng yêu thương vị tha người khác.
Hai đêm sau, khi đã cùng nhau tận hưởng hạnh phúc yêu đương với Phương Tâm, chàng nói cho nàng biết bóng ma hôm trước chính là bác quản gia bị mộng du, nàng véo vành tai chàng nói, “Anh lừa em, anh không tốt.” Chàng đáp, “Anh phải làm thế mới có cơ hội bày tỏ tình yêu với em mà tình yêu ấy mỗi ngày một sôi sục trong anh làm anh như điên như dại.” Nàng không nói nữa chỉ đỏ mặt mỉm cười hạnh phúc, hôn vào vành tai của chàng nơi bị véo hai cái hôn thật kêu.
Sau đúng mười ngày ở Hải Phòng, họ về lại Hà Nội với tâm trạng hoan hỉ của hai người mới yêu nhau. Trong hành trang từ Hải Phòng chàng đã mang về nhiều bức phác hoạ, những bức sau cùng là tranh nuy vẽ Phương Tâm ở nhiều tư thế nằm ngồi đứng. Ở Hải Phòng khi đi dạo trên phố hay trên bến cảng, người dân lao động ở đây đều nghĩ hai người là vợ chồng mới cưới đang hưởng tuần trăng mật.
Về đến Hà Nội, Mạnh Thông bắt tay ngay vào việc vẽ tranh, khi nào mệt thì nghỉ, thỉnh thoảng có lúc cùng Phương Tâm chuyện trò âu yếm, ban đêm nàng thường lẻn lên ngủ chung giường với Mạnh Thông, ôm chàng ngủ dù hai người có làm tình hay không. Sau mười ngày bức tranh “Thiếu nữ dưới mưa đã hoàn tất”với ba tông màu chính là xanh, vàng và tím. Không thể thiếu màu tím được.
Bà Tri Tân thấy Mạnh Thông tươi tỉnh cho rằng không khí trong lành ở biển tốt cho con mình, bà không nghĩ ‘đôi trẻ’ đã yêu nhau. Một hôm bà trằn trọc khó ngủ, trong lòng thấy nhớ nhung người tình đầu tiên thời còn con gái mà bao năm nay bà không gặp lại từ lúc chồng bà ra Hải Phòng làm việc. Bà thong thả bước lên phòng cậu cả xem cậu đã ngủ chưa, bà nhẹ nhàng mở cánh cửa ra và vì phòng mờ tối bà không thấy rõ sự gì ngoài một cái bóng mờ lay động trên giường, khe hở của cửa đã đưa âm thanh trong phòng đến tai bà: tiếng rên rỉ chen với những lời thì thầm ngọt ngào của Phương Tâm, cùng tiếng thở dốc của cậu con bà và một nhịp điệu lên xuống đều đặn, nhịp nhàng. Bà vội nín thở khép cửa lại, xuống nhà dưới đến giường của hai con sen, bà thấy vắng mặt Phương Tâm. Bà thảng thốt kêu lên:
“Thế này thì con tôi chết mất. Nó chỉ còn vắt xương tủy ra để thoả mãn nhục dục cho con Tâm quái ác đó. Hay là con này lại muốn lợi dụng cái nhà lắm của nhưng ít hạnh phúc này…”
Bà đi tới đi lui trong nhà bếp và sau năm phút bà nghĩ lại:
“Con bé ấy thật thà lắm hẳn là không có ý lợi dụng. Và chẳng lẽ mình ngăn một đứa con bệnh hoạn và yểu mệnh được quyền hưởng một hạnh phúc ái tình nhỏ bé trước khi nó ra khỏi cuộc đời này với hai bàn tay không như hai bàn tay không ngày mình sinh ra nó. Nó chẳng đã từng nói với mình về cái chết đã được báo trước, khi mình mới đưa nó từ Yên Bái về Viện bài lao Hà Nội hay sao?”
Rồi bà vung hai tay lên nói tiếp trong bóng tối nhà bếp như một luật sư của dân nghèo:
“Ăn ở với con sen cũng được, liệu bây giờ có tiểu thư khuê các nào dám đến gần con mình không. Đến thăm thôi chắc gì chúng nó đã dám vì sợ vi trùng Cốc lây sang. Thà một đứa nghèo mà có tấm lòng vẫn hơn mấy tiểu thư ngạo mạn. Bọn chúng đang treo cao giá ngọc để chờ lấy những người thuộc lớp quan quyền mới Tây hay ta cũng được mà không tính trước mình có khả năng trở thành những nô tỳ tình dục cho những ông quan ấy.”
Rồi chợt nhớ lại câu chuyện đời, mình bà tự nhủ, “Ngày trước khi mình lấy Tri Tân làm chồng, mình cũng là một cô gái nghèo. Nếu không nghèo hẳn mình đã không lấy Tri Tân mà là anh ấy và cũng không phải khổ tâm như bây giờ… ”
Sau khi đã suy nghĩ đắn đo, bà vào giường nằm chờ giấc ngủ định ngày mai sẽ nói chuyện với Phương Tâm và với chính con trai bà.
Sáng hôm sau, khi Phương Tâm đem bữa ăn sáng cho cậu cả, bà bảo nàng xuống ngay để bà nói chuyện. Mười lăm phút sau, ngồi trên ghế sa-lông, bà nói với nàng:
“Tối hôm qua cháu ngủ ở đâu mà bà tìm không thấy cháu?”
“Dạ, chắc lúc đó cháu còn ở trên phòng cậu cả?” Phương Tâm trả lời ấp úng.
“Vào giờ đó còn ở trên phòng hay … trên giường cậu cả? Ai chủ trương việc này?” Bà Tri Tân hỏi với giọng của một cảnh sát điều tra.
“Dạ cháu không dám.”
“Không dám mà không manh áo che thân còn chồm trên người cậu cả sao?” Bà giả vờ giận dữ.
“Xin bà tha cho cháu … cậu cả nói cậu cả yêu cháu và hứa sẽ nói với bà chuyện ấy.”
“Nói với chả nói… thế cháu yêu nó lại?” Bà bực dọc hỏi.
“Vâng cháu cũng yêu cậu cả…”
“Yêu cậu hay thương hại cậu.” Bà gằn giọng hỏi.
“Cháu thật tình yêu cậu cả vì cậu tốt với cháu.”
Bà ngừng lại một lúc nhìn thẳng vào khuôn mặt bối rối của Phương Tâm. Hình như bà cũng cảm động trước việc đôi trẻ yêu nhau, sau cùng bà nói:
“Tôi không cấm các người yêu nhau. Nhưng tôi cấm các người để cho hàng xóm, khu phố và người ngoài biết được chuyện này. Cháu nên nhớ nếu nó khoẻ mạnh không đến tay cháu đâu. Phần cháu là phụ nữ có yêu cũng phải nhớ giữ sức khoẻ cho nó. Ham hố nhiều là muốn nó chết sớm đấy, có nhớ không?” “Dạ cháu nhớ … cháu vẫn bảo cậu cả cháu chẳng cần việc đó đâu, nhưng cậu cả không chịu.”
“Vậy cháu phải chiều theo cậu cả thôi, còn bây giờ cháu đi làm việc đi,” và khi Phương Tâm sắp lui ra, bà nói theo một câu cuối, “Ngày mai nhớ nhắc bà lấy thêm thuốc ‘sâm nhung’ cho cậu cả.”
“Vâng ạ.” Phương Tâm hớn hở đáp lại.
Mấy ngày sau, khi đưa thuốc cho nàng đem lên cậu cả, bà dịu dàng gọi nàng bằng ‘con’ và có hai lần bà xưng mình là ‘mẹ’. Trong thâm tâm bà đã coi nàng như một con dâu, vì nàng làm vui lòng đứa con bất hạnh của bà. Thỉnh thoảng bà kêu nàng lên phòng bà nhổ tóc sâu cho bà, và bà kể cho nàng nghe những câu chuyện về thời thơ ấu của Mạnh Thông, một cậu bé ngoan ngoản, chuyên cần và có năng khiếu hội hoạ.
Hai tháng trôi qua, những bức vẽ khoả thân bằng sơn dầu trên vải bố đã hoàn thành. Phương Tâm chiêm ngưỡng say sưa những nét đẹp của mình từ bên ngoài chứ không phải từ nơi chính nàng, và nàng khám phá cái lưng của mình mà nàng chưa bao giờ thấy trực tiếp sao đẹp thế như một đồi cát đẹp thoai thoải và óng ả. Bây giờ nàng hiểu được tại sao Mạnh Thông thích vuốt ve cái lưng mịn màng ấy. Những nét đẹp của nàng đã được tài năng hội hoạ của chàng làm cho bay bổng mất hết vẻ trần tục. Ở mỗi bức Mạnh Thông đã chọn những hậu cảnh khác nhau. Họ thường sung sướng ôm chầm nhau khi chàng hoàn thành một bức tranh mới. Kiến thức về hội hoạ của nàng cũng tăng lên khá nhiều.
Thêm một tháng trôi qua nàng biết mình có thai. Bà Tri Tân sững sờ khi nghe nàng báo tin. Trước đó một tuần Mạnh Thông cũng đã biết điều đó. Bà Tri Tân liền dẫn nàng đến một nữ hộ sinh quen biết, ngoài tay nghề cô này còn tuân thủ chặt chẽ việc giữ bí mật nghề nghiệp. Đúng là nàng có thai dù cái thai rất yếu. Ba ngày sau bà lên phòng cậu cả, lúc đó có mặt Phương Tâm. Bà nói sẽ thuê phòng cho ‘đôi trẻ’ được ra riêng để tránh dư luận thị phi về sau và bà sẽ đài thọ mọi phí tổn thuốc men, sinh hoạt như khi họ còn ở nhà. Phương Tâm phải gặp bà mỗi tuần để cho bà biết tình hình. Thỉnh thoảng bà cũng sẽ ghé thăm. Cậu cả chỉ ‘dạ vâng’ đồng ý ngoài ra không nói gì nhiều. Chàng xấu hổ vì căn bệnh luôn làm chàng mang mặc cảm có lỗi với người thân. Dọn về nhà thuê ở phố Hàng Bột thuộc quận Đống Đa được đúng mười ngày, Mạnh Thông có thể ngồi lại trước giá vẽ tiếp tục việc sáng tạo.. Chàng bắt đầu vẽ bức tranh Chúa bị đóng đinh trên cây thập tự.
Khi những đường nét và mảng màu chính tạm xong, chàng bỗng kiệt sức và lên cơn đau dữ dội, những cơn ho dài có thổ huyết. Nàng kêu xe đưa chàng thẳng vào Viện bài lao rồi báo tin cho bà Tri Tân biết. Mỗi ngày nàng đều đến bệnh viện để nuôi chồng. Được ba tuần thì nàng không đến, lúc đó bác tài đi nuôi bệnh thay nàng, nói nàng bị cảm theo lời bà Tri Tân. Năm ngày sau, nàng lại đến, khuôn mặt trắng bệch vì mất máu, đôi môi nàng xanh tái, đôi chân buớc đi run rẩy. Mạnh Thông hỏi nàng:
“Có phải mấy hôm rồi em bị bệnh?”
Nàng lắc đầu nhưng nước mắt giàn giụa:
“Không, nhưng con mình…” đến đây tiếng khóc nàng to lên, hai bàn tay ôm mặt nức nở.
“Con mình sao em?” Mạnh Thông lo lắng hỏi.
“Con mình không giữ được, em bị hư thai vì thai quá yếu …”
Tiếng khóc nàng thảm thiết quá, khiến hai bệnh nhân cùng phòng quay lại nhìn họ lo lắng nhưng không biết là việc gì. Chàng cúi đầu, những giọt nước mắt rơi xuống đùi chàng qua lớp vải quần còn nóng hổi. Một lúc sau chàng nói với nàng những lời an ủi:
“Thôi em đừng buồn nữa. Có lẽ đó là ý Chúa. Vả lại nếu nó được sinh ra mà bố nó mất sớm, cuộc đời nó cũng chẳng vui thú gì. Để chiều nay anh sẽ xin linh mục tuyên uý cầu nguyện cho linh hồn con mình siêu thoát.”
Chàng ám chỉ đến vị linh mục hay đến thăm bệnh nhân mà chàng đã nhờ ông dạy đạo mấy tối trong tuần. Tuần sau chàng sẽ chính thức thành con chiên mới. Phần Phương Tâm cũng hứa sau này sẽ theo đạo Chúa như chàng.
Trong thời gian chăm sóc Mạnh Thông trong bệnh viện, nàng đã gặp chú Tòng, một người bạn cũ của cha nàng ở Bắc Giang đến thăm một cán bộ hoạt động bí mật nằm viện, chú đã đưa nàng vào một tổ chức của đảng CS. Khi nàng thắc mắc sự kiện đảng CS đã triệt hạ Quốc Dân đảng chú Tòng nói rằng Quốc Dân đảng Việt Nam do Quốc dân đảng Trung Hoa thành lập nhằm cản phá đảng CS và bắt tay với đế quốc, nên đảng CS phải ra tay trước để diệt trừ hậu hoạn. Chú Tòng đã lặp lại những gì chính uỷ nói – mà chú không biết là sự xuyên tạc – và Phương Tâm cũng tin đó là sự thật một trăm phần trăm. Nàng còn ngây thơ tin rằng Mạnh Thông là nạn nhân của Quốc dân đảng chứ không phải là của CS và thêm thương cảm cho chàng. Sau này Phương Tâm có thể trách Mạnh Thông không cảnh báo nàng nguy cơ CS mà chỉ kể lại việc CS loại trừ Quốc Dân đảng. Thế nhưng khi bộ mặt thật của CS chưa phơi bày thật rõ ràng, mọi lời cảnh báo có lẽ đều vô hiệu.
Mạnh Thông vào viện được hơn hai tháng thì qua đời. Trong suốt hai tháng ấy chàng quên hết mọi ưu tư chính trị và nghệ thuật nhưng chỉ nghĩ đến khát vọng vĩnh cửu mà một con người có lúc phải đối mặt, chàng còn gọi đó là suối nguồn của cái đẹp. Trước đó chàng đã định quy y Phật pháp nhưng chàng không chịu nổi ý nghĩ chàng đau yếu bệnh hoạn và chết sớm là do kiếp trước làm ác. Thử hỏi chính xác là việc ác cụ thể nào để chàng có thể rút ra một bài học đạo đức cho mình, để tránh ác và làm thiện ở kiếp sau? Nếu không ai nói được thì chàng phải kết luận rằng học thuyết nghiệp báo không có giá trị đạo đức nào cả mà chỉ để biện minh cho kẻ có quyền có tiền và có sức mạnh áp chế người khác mà thôi.
Ngay sau khi chàng tắt thở, Linh mục tuyên úy trong bệnh viện đã dâng một thánh lễ đưa chân cho chàng. Ông nói với Phương Tâm sẽ nhờ các nữ tu cầu nguyện thêm cho chàng ba ngày sau khi an táng. Ông cũng đề nghị bà Tri Tân cho làm lễ an táng Mạnh Thông theo nghi thức công giáo nhưng bà Tri Tân từ chối đề nghị của vị linh mục mà bà phải khen là nhân hậu.
Xác chàng được gia đình Tri Tân đưa về nhà cho các sư sải trong Hội chấn hưng Phật giáo lập trai đàn tụng niệm và mai táng trong trang trại ở Hải Dương. Trong đám tang ấy bà Tri Tân cho Phương Tâm đeo tang em gái, đứng bên cạnh Giáng Vân và Mạnh Hà nhưng nàng được miễn cho việc quỳ lạy. Lúc sau này hai người em của Mạnh thông rất quý nàng vì thấy nàng yêu anh cả họ rất chân tình. Nàng đã khóc đến sưng cả đôi mắt mà Mạnh Thông đã làm cho vẻ buồn trong đôi mắt ấy trở thành vĩnh cửu trong những bức tranh vẽ nàng. Đến dự tang lễ còn có chú Tuấn Đạt, khiến bà Tri Tân hụt hẩng và Giáng Vân ngạc nhiên. Chú Tuấn Đạt nhìn Giáng Vân trong chiếc khăn sô và bộ đồ tang vải trắng với ánh mắt cảm thương và trìu mến.
Ngày trước khi ông Tri Tân chưa ra Hải Phòng, những ngày cuối tuần chú Tuấn Đạt là em kết nghĩa của ông Tri Tân hay đến nhà chơi. Trong lúc chú ấy trò chuyện với ông Tri Tân về mọi vấn đề, hai anh em Mạnh Thông và Giáng Vân tha thẩn chơi gần đó. Khi ông Tri Tân ra Hải Phòng mở hãng buôn, chú Tuấn Đạt cũng không đến nữa. Hình như có đến một lần nhưng khi chú ấy ra về, Giáng Vân bắt gặp mẹ nàng nằm khóc. Bây giờ gặp lại chú ấy trong đám tang, Giáng Vân đã xin địa chỉ chú để tìm hiểu nguồn cơn dù sự việc ấy đã qua khá lâu rồi.
Sau đám tang, từ trang trại ở Hải Dương, ông Tri Tân đi ngay ra Hải Phòng chuẩn bị cho lô hàng sắp xuất khẩu sang Hương Cảng. Vả lại ông đang theo đuổi một cô tình nhân trẻ khác, con gái một nhân viên hải quan làm việc trong cảng Hải Phòng. Cô ta mồ côi mẹ chỉ bằng tuổi Giáng Vân, nhưng to cao và phổng phao như một vận động viên đô vật.
Ba ngày sau vị sư già cùng bà Tri Tân và chị người làm về trang trại Hải Dương mở cửa mả và tụng kinh cho người đã mất. Buổi chiều họ về lại Hà Nội. Trong lúc ngồi trong ô tô đi đường, vị sư già khuyên bà Tri Tân nên học Phật pháp để quên đi nỗi phiền muộn mất con. Bà Tri Tân đồng ý, vị sư già nói, “Thầy sẽ sai một đệ tử tên Quảng Trí tuần sau đến dạy con Phạt pháp”. Quảng Trí là pháp danh của Chí Cường quê ở làng Mông- Bắc Giang, một làng kế bên làng Muội. Bốn ngày sau Quảng Trí đến và bắt đầu bài học đầu tiên. Lúc sư giảng, giọng trầm bổng như một bài hát ru, bà thấy lòng thư thái. Đến cuối giờ sư hỏi lại một vài ý, trong lúc bà suy nghĩ sư đắm đuối nhìn bà với nét đẹp mãn khai tuổi trung niên ; ánh mắt đầy ma lực ấy khiến bà bất chợt thấy lòng rung động và phải kềm chế ngay khi còn có thể.
Sau năm tuần lễ nói về cuộc đời, công đức và cả tiền kiếp Đức Phật, Quảng Trí giảng bài thứ sáu nói về khổ đế và cái chết. Sự liên tưởng làm bà Tri Tân thổn thức: nỗi buồn mất con đến hôm ấy mới thật là thấm thía làm bà sắp ngất. Sư Quảng Trí phải dìu bà vào phòng và đặt bà nằm xuống cái giường gỗ lim bóng lộn, trên lớp nệm dày. Lúc ấy bà không chịu buông Quảng Trí: bà vẫn khóc lóc than van như một cô đào thương nhập vai diễn rất bi ai, bà còn cào-cấu-cắn cái số phận nghiệt ngã đã định cho Mạnh Thông mà bà phóng chiếu và thị hiện nơi Quảng Trí làm nổi lên trên thân thể Quảng Trí những vết xước đỏ, trong lúc Quảng Trí luôn miệng thì thầm, “Mô Phật, chỉ xin bà đừng quá sầu não vì cậu cả.” Nhưng sự bạo hành ấy, nhờ được an ủi đã dịu dần. Bà bối rối xin Quảng Trí tha lỗi cho bà và để bù lại sự bạo hành ấy, đôi bàn tay bà đã trở thành những cái vòi của con mực biển mềm mại trong động tác vuốt ve âu yếm và mỗi lúc một thêm hối hả. Bà không còn nghĩ đến khoảng cách tuổi tác giữa hai người. “Sư Trí ơi, nữ khổ quá và cô đơn quá! Sư làm điều gì đó cho nữ đi chứ!” bà thì thầm than thở. Quảng Trí kề miệng vào tai bà hỏi nhỏ , “Thiện nữ thật sự buồn đến thế sao?” Bà khẻ gật đầu. “Để xem thầy làm được gì…” Quảng Trí nói. “Thầy làm được mà” bà thều thào nói. Rồi ngay sau đó bà cởi tung những nút áo của mình, bà đã sẵn sàng hiến dâng cho Quảng Trí thân xác còn sung sức và hấp dẫn của bà.
Bàn tay vuốt ve của Quảng Trí cũng mạnh bạo không kém, tạo thành những đường cày màu hồng nhạt trên lưng và đùi bà, sau đó dừng lại một hồi ở giữa háng. Rồi đến giây phút quyết định là sự tháp nhập đầu tiên của Quảng Trí vào bà… Trong cuộc trao đổi kỳ lạ này giữa một người nữ trong cõi tục với một nam nhân mà theo bà nghĩ đã đến rất gần cõi Phật, một cõi bà hằng mơ ước nhưng thấy mình còn xa quá. Những lời bà thở than dần dần nhường chỗ cho sự rên rỉ của cả hai người mỗi lúc một lớn dần theo động tác ngựa phi. Sức trai trẻ của Quảng Trí đem lại cho bà một lạc thú mê ly mà lâu lắm rồi bà không được thụ hưởng. Khi cuộc chơi kết thúc, bà quên hết sầu não về Mạnh Thông quá cố và bà ngủ yên (để tránh cảm giác ngượng nghịu) dưới tấm chăn mà Quảng Trí đắp cho bà trước khi lặng lẽ ra về, trong lòng còn tự nhủ, “Một lần nữa lại ứng nghiệm câu nói của thầy tử vi về mình là hoạn quan đắc chí”. Quảng Trí không ngờ rằng sự kết hợp giữa khổ dâm và bạo dâm trong giờ phút tiền định ấy đã tạo nên vẻ quyến rủ của ông ta dưới con mắt bà Tri Tân.
Chiều tối, bà thức dậy ngắm mình khoả thân một lúc trước gương để nhận ra thân thể bà đầy đặn nhưng vẫn còn săn chắc, đôi chân dài còn giữ những đường nét khả ái dù bà đang bước vào tuổi trung niên. Bà tưởng mình đang sống một xuân-thì đến muộn hoặc một hồi-xuân đến sớm. Bà tự nhủ phải bỏ bùa mê cho sư Trí, điều khiển sư và giữ sư làm tình nhân cho bà càng lâu càng tốt: Bà phải trả thù chồng bà luôn chạy theo lũ gái tơ, đẩy sự thất vọng của bà đến chỗ cùng cực. Rồi chồng bà sau cùng cũng đồng ý ly thân với bà mà không chịu ly dị. Đã năm năm rồi, bà phải chịu cảnh buồng không gối chiếc, sau khi ông đã tập cho bà sự yêu chồng chỉ bằng việc đáp ứng tối đa nhục cảm. “Tôi là gì mà đi quỵ lụy một người chồng bội bạc và đa dâm như thế, ông ta đã lớn tuổi rồi mà vẫn còn thích chơi trống bỏi.” Và trong lúc bà bước đi nhún nhảy như chim sáo xuống nhà ăn dùng bữa tối, bà chợt nghĩ đến toa thuốc bổ âm của Từ Hy Thái hậu. Sau bữa ăn bà không quên chuẩn bị việc dâng y ngày mai của Hội chấn hưng và cuộc quyên góp cho người nghèo ở vùng bị lũ lụt mà lúc đầu bà đã thoái thác vì tang sự.
Phần Quảng Trí, sư không hề bị lương tâm cắn rứt. Sư đã dùng thuyết “vô ngã” của đạo Phật, dĩ nhiên một sự áp dụng tùy tiện và sai trái, để “hư vô hoá” cái tôi thương cảm, cái tôi tự do và có trách nhiệm về những giây phút hành dâm với bà Tri Tân hoặc với bà Nguyệt Minh, vợ một ông nghị Trịnh Tuân cũng học Phật pháp nơi sư. Quảng Trí cho rằng đó chỉ là những lúc mà ngũ hành, ngũ căn, ngũ uẩn của hai người tương tác và tạo nhân duyên cho nhau với những tần số có biên độ lớn trong một chuỗi vô tận các nhân duyên. Không có bản ngã nào là Quảng Trí cả, dù với người đàn bà này hay người đàn bà khác và họ cũng là một chuỗi nhân duyên tương tác. Thế thì đối với Quảng Trí giao hợp với người phụ nữ nào cũng đều là sự cẩu hợp, sự cọ xát của hai làn da, cùng với tiếng kêu rên như của loài dã thú. Vả lại thời gian gần đây Quảng Trí vẫn nghĩ mình là một người của Đảng CS hơn là một người của Phật môn và do đó ông ta chấp nhận một nguyên tắc bá đạo trong chính trị: cứu cánh tốt có thể biện minh cho phương tiện xấu hay cái-xấu-cần-thiết đôi khi không hạn chế và ông ngụy tín tin rằng việc giao hợp và khơi dậy lạc thú nhục dục nơi bà Tri Tân hay bà Nguyệt Minh là một điều cần thiết để giữ cho các bà luôn sống trong lạc quan và hạnh phúc dù là giả tạm.

(Xem tiếp phần 3)

 
 

Vĩnh An Nguyễn Văn Sơn