NHỮNG VIÊN GẠCH LÓT ĐƯỜNG


 
 
 

3. Tục Đế và Chân Đế

Sau đám tang của Mạnh Thông, Phương Tâm tiếp tục thuê căn nhà ở phố Hàng Bột, lần này nàng đồng ý cho Ngọc Xuân một vũ nữ ở vũ trường Lido mà chú Tòng giới thiệu về ở chung cho đỡ bớt một nửa tiền thuê nhà. Ngọc Xuân người Thanh Hóa trước đây làm con sen cho gia đình một ông nghị, sau đó bị ông nghị cưỡng dâm và bà nghị đánh ghen, phải đi làm gái nhảy. Phương Tâm bán một nửa số tranh của Mạnh Thông để làm vốn, thuê nhà ngoài phố mở một tiệm phở. Nửa số tranh còn lại thỉnh thoảng được nàng lấy ra nhìn ngắm để nhớ về Mạnh Thông. Mỗi lần như thế nàng đều khám phá ra một điểm mới mẻ trong nghệ thuật và trong tâm hồn Mạnh Thông làm nàng xúc động. Nàng không quên ngắm bức tranh Chúa bị đóng đinh trên cây thập tự với bộ ngực gầy còm và mỏng như bộ ngực của chàng và trước bức tranh ấy, Phương Tâm đã không cầm được dòng lệ tuôn rơi.
Chính tiệm phở ấy là chỗ các chị em gái nhảy, cô đầu, gái đứng đường, các con sen trong tổ chức thường gặp mặt. Ở đó, Phương Tâm quen biết các cô Thúy Quỳnh, Ngân Giang, Thị Bạch, Minh Thiết, Kim Thi … là những người cùng chung tiểu đội biệt động của nàng và phải vô tư nói rằng nàng và Ngọc Xuân là hai người khả ái nhất. Họ là lớp đàn em của các thế hệ đầu tiên hầu hết đã hy sinh khi quân Pháp tiến chiếm Hà Nội: những cô gái lỡ lầm như gái điếm, gái nhảy, những thành phần bất hạnh và bất hảo ‘được’ các cán bộ CS tập hợp lại giao cho vài vũ khí thô sơ với nhiệm vụ nặng nề phải chặn đường tiến của Pháp hoặc cầm chân Pháp ngõ hầu lực lượng quân sự chính quy rút lên chiến khu an toàn. Dĩ nhiên họ đã bị lực lượng chuyên nghiệp của Pháp tiêu diệt. Sau này có người cho rằng CS muốn thí bỏ họ vì lợi ích của Đảng thay vì phải bố trí một đội quân cảm tử và thiện chiến bọc hậu và phải chịu nhiều hy sinh tồn thất. Cứ để cho quân Pháp tiêu diệt những kẻ nghèo khổ lỡ lầm và bất hạnh, những kẻ vô gia cư đầu đường xó chợ ấy chết thay cho lực lượng chính quy, đồng thời xoá bỏ mọi dấu vết của tệ đoan xã hội từ bao đời còn sót lại trên kinh đô cũ. Bởi vì trong cuộc tiêu thổ kháng chiến ấy, ma quỷ có khi xúi giục phải ‘tiêu thổ’ cả những con người bằng xương bằng thịt.
Các cô đã qua thời gian học tập đường lối của đảng như những tâm hồn đơn sơ bị quỷ ám, và bắt đầu bước vào tập luyện quân sự dĩ nhiên ở những nơi bí mật như ở sân đình, nghĩa trang những đêm trời tối trong ánh sáng nhập nhoạng của những chiếc đèn dầu bên dưới những cái ô đen hoặc những lùm cây. Họ tập chạy, tập bò, tập vượt chướng ngại, tập ngắm với những cây súng trường nặng trịch và cũ kỹ lấy của địch không nạp đạn, khi bóp cò thì xạ thủ tự kêu ‘Pằng’ một tiếng để tính sự nhanh nhạy trong thao tác. Sau buổi tập, các mẹ chiến sĩ phát cho mỗi chị em và các cậu bé bụi đời vô gia cư một gói xôi với muối vừng sau đó tan hàng, mọi người rút êm về nhà. Một hôm trong khi mãi mê ở lại dọn dẹp ‘thao trường’ sau buổi tập, tổ trưởng Phương Tâm lần lữa chưa về vội. Nàng chợt thấy các cán bộ còn ngồi quây quần dưới một tán dù cách chỗ các cô tập lúc nãy bằng một cái ném đá và sau một gò đất với cái đèn duy nhất còn thắp sáng. Nàng rón rén lại gần xem họ làm gì. Bên cạnh một nia xôi giống như vừa rồi các chị em đã ăn, chễm chệ một con gà luộc to, béo nhẫy trên một cái đĩa lớn. Các cán bộ mãi nhìn vào con gà trong lúc Phương Tâm nhẹ nhàng lui ra, miệng chảy nước bọt vì thèm. Giữa đêm tối mênh mông, con gà luộc trên có rắc những lá chanh xắc nhỏ như những sợi chỉ là vật duy nhất được chiếu sáng. Tội nghiệp bác Tòng lúc ấy đang lăng xăng trong bóng tối phục dịch các cán bộ, bác bày biện chén đũa, xách hai chai rượu và mấy cái ly có cả một bình trà và mấy cái tách bằng sành. Núp trong bóng tối, Phương Tâm đã lầm lũi ra về và để tự trấn an, nàng tụng mãi một câu nàng đã học, “Trong xã hội mới do Đảng xây dựng ai cũng được ăn no, mặc ấm…” Và ngay sau đó, nàng nuốt nước bọt vì thèm ăn và tự ý thêm vào: “Nhưng có một thiểu số rất ít lúc nào cũng được ăn ngon mặc đẹp.” Các cô gái biệt động vẫn tiếp tục luyện tập tác chiến trong đêm, ít nhất mỗi tuần ba lần. Cuối một buổi tập, hai tổ trưởng là Phương Tâm và một anh cu-ly làm nghề khuân vác ở chợ Đồng Xuân được yêu cầu ở lại họp chung với ban chỉ huy lên kế hoạch đánh đồn. Căn nhà tranh nơi họ hội họp khá rộng, nhưng chỉ đốt có hai cây đèn dầu nhỏ. Vừa bước vào Phương Tâm suýt kêu lên vì trong ban chỉ huy có một nhà sư nàng thấy giống như Chí Cường, người nàng đã yêu nhưng vì thù hận giữa hai nhà nàng đành chia cắt. Anh ta đội mũ ni, mặc áo quạ có may đường hò từ cổ xuống nách, cài nút bên tay trái, quần vải màu nâu bạc màu. Khi nghe một người trong ban chỉ huy giới thiệu thì nàng mới biết đó là sư Quảng Trí, phụ trách công tác tư tưởng, quê ở Ninh Bình, mọi bối rối trong lòng nàng vẫn còn nguyên. Nàng không tin ngay lời giới thiệu ấy vì cán bộ hay dùng tên giả để hoạt động. Nàng còn nhớ Chí Cường có nói sẽ vào chùa nếu không lấy được nàng. Vả lại nàng sẽ tìm cách khám phá ra sự thật này. Hiện nay nàng đã nguôi ngoai mối hận ngày xưa vì những xúc động cha chết dịu dần làm nàng suy nghĩ lại. Người chịu trách nhiệm là cha Chí Cường chứ không phải là chàng - một người thật sự si mê nàng. Vả lại trong bối cảnh nơi này không ai biết cái chết của bố nàng là do một câu nói ác của cha chàng, nàng thấy mình sẽ không có lỗi nếu hai người lại yêu nhau. Phần Quảng Trí cũng không cho mình với Chí Cường trước kia là một vì theo giáo lý nhà Phật, bản ngã đơn nhất là cái không có thật chẳng qua chỉ là giả định mà thôi: Chí Cường hay Quảng Trí đều là giả danh. Vấn đề là hiện nay hai người còn có thể yêu nhau lại được hay không.
Sau gần hai năm xa cách điều mà chính Quảng Trí cũng phải ngạc nhiên là tình yêu sôi sục của sư ngày nay hướng về Phương Tâm cũng chính là tình yêu nóng bỏng của Chí Cường ngày trước. Vậy chí ít bản ngã Chí Cường vẫn luôn có mặt. Tối hôm qua, trong lúc làm tình với bà Nguyệt Minh lần thứ hai khi trời gần sáng, vì ông nghị Trịnh Tuân đã đi công tác mấy ngày, Quảng Trí trong cơn đê mê ấy trên thân thể quằn quại vì khoái lạc của đối nhân, bỗng nhiên lắp bắp trong miệng tên của Phương Tâm, nhưng bà Nguyệt Minh không biết, bà nghĩ đó là tiếng rên rỉ lạc giọng của nhà sư trẻ do hiệu quả của việc bà đã dùng thuốc “tráng âm” khiến bà có dâm lực của một thiếu nữ đôi mươi.
Trời đã về khuya khi kế hoạch tác chiến đã được thống nhất và mọi người giải tán. Quảng Trí đưa Phương Tâm về căn hộ nàng thuê chung với Ngọc Xuân ở Hàng Bột, theo đường tắt trên các bờ ruộng. Đường hẹp, dưới ánh trăng lên muộn có lúc hai người đi sát chạm tay vào nhau, hoặc nắm tay nhau để qua chỗ khó đi. Chợt nhớ lại chuyện trước đây bố Chí Cường lấy thuyết nhân quả để huỷ hôn ước của con mình, Phương Tâm liền hỏi Quảng Trí:
“Đạo Phật có thuyết nhân quả và nghiệp báo, thầy giảng qua cho em biết với…”
“Gọi thầy trịnh trọng quá, Tâm cứ gọi tôi bằng anh được rồi vì chúng ta đều là đồng chí của nhau.” Quảng Trí đáp đồng thời cũng nhớ lại chuyện xưa, “Này nhé nhân quả giống như ta hay nói ‘trồng khoai ăn khoai, trồng đậu ăn đậu’ nghĩa là một hành động sẽ có kết quả của nó đem lại cho chính người gây ra…”
“Nhưng người trồng khoai lắm khi không ăn khoai mà bán cho người khác lấy tiền…”
“Vì thế luật nhân quả chỉ là sự phỏng chừng mà thôi và nó thuộc tục đế. Trái lại trong chân đế không còn nghiệp và nhân quả nữa ” Quảng Trí đáp lại trong lòng tự nhủ, “Vẫn là tâm hồn sắc sảo của ‘cô ta’ ngày xưa”.
“Sao gọi là phỏng chừng?”
“Ví dụ như một người ngày nay bị bọn cướp chận đường giết chết nếu lấy nhân quả giải thích, có thể nói rằng vì kiếp trước người ấy là tướng cướp đã từng giết hại một tên cướp hiện nay. Giải thích như thế chỉ là phỏng chừng như việc cân bằng trên giấy một đẳng thức toán học hay hóa học. Vả lại người bị giết chết ngày nay không hề ý thức việc mình trả nghiệp cũ bằng cái chết nên vẫn phải coi cái chết của mình là oan ức do kẻ hung ác gây ra. Do đó trong toà án không ai căn cứ vào nhân quả mà căn cứ vào trách nhiệm để xét xử. Kẻ giết người không thể lấy kiếp trước để biện minh. Chính vì sự phỏng chừng ấy mà người ta sẽ đưa chủ kiến mình vào cách giải thích các sự cố theo nghiệp báo nhân quả, thậm chí còn lấy đó biện minh cho điều xấu. Nhân quả và nghiệp báo hoá ra thừa và không chính xác. Tuy thừa vẫn có kẻ sử dụng để biện minh ví dụ chúa Trịnh, chúa Nguyễn hẳn đã kêu một nhà sư có uy tín đứng bên cạnh mình nhưng suốt buổi làm thinh rồi hai chúa nói với lê dân: ‘Chúng mày phải đi lính cho hai Tao, phải chết cho hai Tao làm nên nghiệp đế vương vì cái nghiệp của chúng mày đã quá xấu xa trong nhiều kiếp,’ và lê dân chỉ biết cúi đầu cam chịu…”
“Bây giờ em mới hiểu …” Phương Tâm nói, lòng nàng sung sướng vì câu nói của Quảng Trí là lời minh oan cho cha nàng; nàng cầm chặt lấy tay của Quảng Trí biểu lộ sự tri ân, trong lúc Quảng Trí thú nhận:
“Thật ra anh không phải là nhà sư đúng nghĩa mặc dù được đào tạo để trở thành nhà sư, anh chỉ đóng vai nhà sư để dễ hoạt động cho Đảng ta thôi, núp bóng thiền môn để thực hiện lý tưởng CS. Dĩ nhiên cũng phải có hiểu biết tối thiểu về Phật pháp mới qua mặt được phòng nhì của Pháp. Anh đã từng gặp mấy thằng Tây thực dân nghiên cứu và nắm vững Phật học ra trò. Tóm lại điều mơ ước của anh không phải là sự giải thoát mơ hồ nào đó…”
“Vậy anh mơ ước điều gì?”
“Anh mơ ước hoà bình sớm trở lại, anh sẽ vào làm thư khố, dịch những sách nho ra quốc ngữ để bảo tồn văn hoá dân tộc và có một mái ấm gia đình nho nhỏ …”
“Đơn giản thế thôi sao?”
“Có một chỗ không đơn giản là không biết tới lúc ấy anh còn ở gần em không và lúc ấy em còn ‘ở không’ như lúc này không…”
Năm chữ ‘không’ trong một câu nói thật thắm thiết, sau đó hai người cùng im lặng đi dưới ánh trăng mờ như hai cánh buồm kề nhau trên biển đêm. Một lúc sau, Phương Tâm vẫn còn nắm tay Quảng Trí trong tay mình khẽ khàng nói:
“Em cũng không biết nữa…”
Thêm ba lần họp buổi tối cho kế hoạch đánh đồn và lần thứ tư khi đưa nhau về Phương Tâm và Quảng Trí đã nói lời yêu đương.Tình yêu giai cấp đã giúp hàn gắn sự ngộ nhận đã làm tình yêu của hai người đổ vỡ một thời gian khá dài. Ở đây, thuyết vô ngã của nhà sư đã cộng hưởng với hòan cảnh mới của nàng sống cô đơn xa nhà, xa người thân để quay lại khởi điểm của một tình yêu mà nàng vẫn nghĩ là mới gặp. Hôm ấy ánh trăng sau rằm mấy ngày còn sáng tỏ, soi rõ hai người. Họ đi thật chậm bên nhau, thỉnh thoảng Quảng Trí kéo nàng vào một thân cây bên đường dựa lưng nàng vào để hôn môi nàng, cổ và tóc nàng, Trí mút từ đôi môi ấy chất ngọt ngào thơm mát của tình yêu, và đánh thức trong trái tim nhạy cảm của nàng một ước mơ hạnh phúc kể từ sau ngày Mạnh Thông mất sớm. Nụ hôn làm nàng vặn người như một ngọn lửa trước gió.
Tuy vậy Quảng Trí có một thúc bách khác: Trí muốn ăn nằm trước với nàng vì sợ lần này lại hỏng vào giờ chót như sự cố hồi hai người còn ở Bắc Giang nên quyết đưa tình cảm đi sâu hơn. Việc đánh đồn được dời lại vì bí mật bị tiết lộ và việc Ngọc Xuân tranh thủ về thăm nhà ở Thanh Hoá trở thành một cơ hội tốt. Một tối Quảng Trí đưa Phương Tâm về tận nhà. Dừng lại trước cửa, Quảng Trí nói:
“Em vào đi, anh về chùa Lá nghỉ đây, chúc em ngủ ngon.”
“Anh vào chơi tí đi vì chỉ có mình em, chị Ngọc Xuân về quê mấy hôm mới lên lại.”
“Ừ thì vào.” Quảng Trí phấn khởi trong lòng nhưng nói với vẻ lãnh đạm.
Khi Quảng Trí vào nhà, Phương Tâm định đóng cửa lại bỗng nghe tiếng rao của xe cháo lòng đẩy ngang qua đầu hẻm, nàng vội lấy hai cái bát to chạy ra mua hai bát cháo. Hai người cùng ngồi ăn dưới ngọn đèn vàng vọt nhưng không khí rất ấm cúng, ken kín tình cảm dịu dàng, âu yếm của họ. Họ vừa ăn vừa nhìn nhau và trao đổi vài câu chuyện. An uống xong, Quảng Trí đứng lên nói:
“Anh về đây…”
“Anh không nghe trời đổ mưa sao?”
“Anh đội mưa về vậy…” Quảng Trí lại giả vờ hờ hững.
“Không, em không cho anh ra về trong mưa… Với lại em sợ ở một mình ban đêm…” nàng nói với giọng lẳng lơ. “Được, anh ở lại với em thêm một lúc cho em hết sợ.” Quảng Trí nói và cùng nàng ngồi vào giường.
Một lát sau sư ôm chặt và vuốt ve nàng. Nàng cũng vò cái đầu trọc của sư và vành tai không có trái tai của chàng. Nếu nàng là một nhà tướng số hẳn nàng sẽ biết thọ mệnh của Quảng Trí không nhiều vì trái tai không có. Khi Quảng Trí định cởi những cúc áo cánh của nàng, nàng đứng lên nhìn thẳng vào sư và nói: “Có phải anh là Chí Cường ngày trước ở Bắc Giang không? Anh phải nói thật nếu không sau này đừng gặp mặt em nữa?”
“Chí Cường nào ?” Quảng Trí chối ngay.
“Chí Cường mà em đã yêu rồi đã ghét và bây giờ lại muốn yêu?”
“Vậy em ngồi xuống và nghe anh nói đây: anh là Chí Cường đó. Vì em đã xua đuổi anh nên anh đã vào chùa tu lại lần hai vì từ nhỏ anh đã được gởi vào chùa kế bên nhà, rồi đã đi theo đảng. Bây giờ anh gặp lại em và muốn nối lại tình yêu ban đầu không phải với tư cách là con một ông hương quản có lỗi bội ước với cha em, không phải là một nhà sư tìm sự giải thoát mơ hồ nhưng là một người con trung kiên của đảng…. Liệu em có chấp thuận không?” Phương Tâm im lặng một lúc, nàng tin rằng nhờ đảng Chí Cường đã có sự hoán cải rồi. Nàng tin vào điều nàng kỳ vọng mà không xét đến thực tế.
“Vâng, thật ra em đã biết và muốn chính miệng anh xác nhận lại thôi.”
Lúc đó Quảng Trí tuột khỏi cạnh giường quỳ gối trước mặt nàng, dụi cái đầu trọc của mình vào giữa hai đùi dài thon thả của nàng từ đó bốc ra một mùi ngai ngái của cây ngải cứu:
“Anh đã trở thành một con người khác, con người mới của chân lý mới…”
Nàng xoa đầu và kéo nhà sư lên rồi hai người cùng nằm xuống giường, Quảng Trí tiếp tục những lời tán tụng và yêu đương trong lúc cởi từng cái nút trên áo cánh của nàng. Một lúc sau những ngón tay dài của nàng ôm chặt lấy cái đầu tròn và trọc của sư nhấp nhô lên xuống trên bộ ngực của nàng như một trái dừa nhấp nhô trên mặt biển. Hai người rên rỉ trong sự tận hưởng lạc thú. Sự dâng hiến ấy làm nàng thật sự hạnh phúc vì nó bù đắp sự ức chế và làm lành lại chấn thương mà sự cố ở làng Muội đã gây ra cho nàng. Nàng không ngờ tính đa dâm của Quảng Trí sẽ còn gây ra cho nàng những xúc phạm và chấn thương khác.
Bốn giờ sáng hôm sau Quảng Trí lại sử dụng phương thuốc trị chấn thương tâm lý ấy để củng cố lại cái được gọi là tình yêu. Sau đó sư ra đi trong sương sớm, đến chùa Lá. Trên đường sư ‘ngộ’ ra một điều: Phương Tâm đã yêu bản ngã của Chí Cường chứ không phải cái vô ngã của Quảng Trí rồi sư lẩm bẩm: “Vậy phải nói rằng vô ngã là chân lý tu tập để đoạn trừ, hữu ngã là chân lý của thực tại và giác ngộ vì dù sao cảm xúc khoái lạc là có thật và khi hành lạc, mình đang sống mạnh mẽ với cái bản ngã độc đáo của mình. Không ngờ mình lại đào hoa đến thế. Nhưng ba người đàn bà liệu đã đủ chưa khi mà trong đạo Hồi, một đấng trượng phu phải có đến năm ba bà vợ…. Và con số nhiều của các phụ nữ qua tay mình mang ý nghĩa tôn cao bản ngã đó.” Rồi khi nhớ đến việc Phương Tâm bắt sư thề độc phải chịu chết thảm nếu chàng hai lòng, lang chạ với người khác như tiếng đồn ở làng Mông, kế bên làng Muội (gái góa không tha, gái già không bỏ) sư thề ngay sẽ chịu chết thảm. Thế nhưng làm sao sư có thể vì Phương Tâm buông bỏ những người như bà Tri Tân, một phó hội trưởng hội chấn hưng Phật giáo, bà Minh Nguyệt một phụ nữ sắp tới sẽ đại diện cho các chị em buôn bán nhỏ ở chợ Đồng Xuân ra ứng cử Hội đồng dân cử địa phương. Làm tình với những người đàn bà có thế giá như thế có cái sướng đặc biệt mà một cô gái nghèo như Phương Tâm không có. Rồi một cách rất triết lý sư kết luận, xác thịt sẽ trở nên rất nghèo nàn nếu không được bổ sung bởi cái gì bên ngoài xác thịt, nếu người theo đạo Chúa vận dụng đến tình yêu, thì ta, Quảng Trí sẽ sử dụng ‘thế giá’ để bổ sung cho xác thịt được phong phú. Và khi ta làm tình với những mệnh phụ là ta làm tình trên đầu những ông chồng có chức có quyền của họ.
Tiếng công phu giờ kinh đầu tiên trong ngày ê a từ Chùa Lá vọng ra làm sư biết mình đã về đến chùa và cắt ngang mọi suy nghĩ đầy hứng thú của sư. Sư lặng lẽ đi vòng qua chính điện, vào phòng ngã lưng xuống giường nhớ lại việc trong đêm, mỉm cười đắc thắng và ngủ thiếp.
Hai tối sau như đã hẹn trước, lúc Phương Tâm từ quán phở về nhà lúc 10 giờ khuya, nàng mừng rỡ thấy Quảng Trí đã đón nàng ở đầu hẻm. Hai người lặng lẽ vào nhà, sau đó việc hành lạc xảy ra như đêm trước. Tối thứ tư Ngọc Xuân đã từ Thanh Hoá trở về Hà Nội. Những cuộc hẹn sau đó dời qua chùa Lá, Quảng Trí đón Phương Tâm tại ngã ba đường dẫn lên chùa Lá. Quảng Trí đã đưa nàng một bộ áo chú tiểu với cái mũ ni che tóc để nàng cải trang trên đường khi theo sư từ buổi họp về chùa trong đêm. Ngọc Xuân thấy gần sáng Phương Tâm mới về nhà nhưng cũng không hỏi đã đi đâu, chỉ đoán chừng là buổi họp kéo dài nên đã ngủ lại nhà các đồng chí nữ gần nơi luyện tập. Sau hai đêm liền ở Chùa Lá, Quảng Trí nói sẽ đi công tác lên Phú Thọ và họ không gặp mặt nhau từ đó cho đến lúc các biệt động thành đánh đồn quân Pháp.
Dù sao trận chiến giữa những biệt động thành với những lính lê-dương sắp tới hồi khai cuộc. Ban chỉ huy chủ trương phải đánh đồn để gây tiếng vang dù địch có biết trước và đề phòng và dù các biệt động thành bị thiệt hại nặng hơn dự kiến. Tiếng vang là chính nhưng để giảm bớt thiệt hại phải đánh nhanh rút gọn. Đội biệt động được trang bị thêm hai trung liên và một số lựu đạn. Giây phút mà họ nóng lòng chờ đợi với tất cả nhiệt tình và sự hăm hở không kém các bộ đội chính quy. Họ sắp bước vào cuộc chiến ấy với tất cả những uẩn khúc của cõi lòng, họ là những chiếc lá, những bông hoa mới nở trên cành cao trước khi rơi xuống dòng nước xiết của lịch sử đã bị một cơn giông tố quay cuồng trên không qua những nơi tối tăm và hôi hám. Thôi thì hãy cảm thán nhưng đừng phẫn nộ, hẳn lịch sử có nguyên-nhân-cứu-cánh của nó nhưng không một ai biết được như một người đang giữa buổi xem phim, không biết được kết cục của phim ấy thế nào.

@@
Sau cái chết của Mạnh Thông chừng hơn một tháng, bà Tri Tân đã bố trí cho sư Quảng Trí một căn phòng để khi cần sư có thể ở lại qua đêm. Căn phòng ấy sát bên phòng và sau một gian thờ với bàn thờ và đủ thứ chân đèn lư hương, bình cắm hoa, bình đốt hương, bài vị, câu liễn câu đối. Có một hành lang chung đi qua ba phòng ấy, bên ngoài những dây hoa ti-gôn leo trên một lưới kẽm che kín. Trừ gian thờ, hai phòng kia đều có cửa sổ không song sắt hướng ra hành lang. Để gặp bà Tri Tân giữa đêm khuya, Quảng Trí chỉ cần bước qua cửa sổ đến cửa sổ phòng bà Tri Tân gõ nhẹ vào mấy tiếng, bà biết ngay Quảng Trí đang đợi bà mở cửa sổ để leo vào. Bà Tri Tân giải thích với hai con bà Giáng Vân và Mạnh Hà:

“Mẹ phải bố trí cho sư thầy của mẹ một căn phòng trước đây bố con thường dùng tiếp khách giao dịch, để khi sư thầy có về Hà Nội công tác có chỗ nghỉ ngơi vì thầy đang trụ trì ở Ninh Bình.”
“Còn việc ăn uống thì sao hả mẹ?” Giáng Vân nhún vai hỏi.
“À sư Quảng Trí được các sư trưởng cho phép phá chấp khi đi công tác nên nhà mình thường ăn uống thế nào, sư cũng ăn theo như vậy”. Bà đáp với con gái, nhưng từ ngày hai người đã ăn nằm với nhau, bà đã khéo mua những thức ăn bổ dưỡng để tiếp sức cho Quảng Trí cho cuộc âm dương giao chiến.
Giáng Vân định xin mẹ cùng được nghe sư Quảng Trí dạy Phật pháp, nhưng có lần bất chợt thấy sư nhìn mình một cách man rợ như muốn ăn tươi nuốt sống nên nàng sợ và thôi. Lúc đó hình ảnh của chú Tuấn Đạt hiện ra tăng thêm sức mạnh cho nàng.
Từ sau đám tang Mạnh Thông, Giáng Vân đã một mình đến nhà chú Tuấn Đạt mấy lần: một căn nhà gỗ trong một cái vườn nhỏ, ngay sau cổng rào bằng gỗ có mấy bụi trúc cao quá đầu người làm thành một bức bình phong che chắn. Hôm ấy là ngày chủ nhật. Chú Đạt nhìn Giáng Vân đến không khỏi thán phục thời gian đã tác tạo một vẻ đẹp lạ lùng nơi con gái của người anh kết nghĩa của mình, chú nghĩ thầm “Con bé giống Thể Vân (tên bà Tri Tân) như đúc,” và như để trấn an mình, chú Đạt nhẹ nhàng lắc đầu và nói:
“Từ ngày bố cháu ra Hải Phòng chú cũng về ở ẩn nơi này…ngày ngày từ nhà đến sở lâm nghiệp rồi lại về nhà…”
“Tại sao chú không đến thăm mẹ cháu và mấy cháu…”
“Mấy cháu thì được nhưng mẹ cháu thì không được…” Biết mình lỡ lời, Tuấn Đạt nói tiếp, “Chú nói đùa đấy… với lại chú bận rộn quá. Bây giờ cháu đi xem qua nhà chú đi…Rồi lát nữa hai chú cháu mình cùng chuẩn bị cơm trưa, ăn xong cháu hãy về.”
Từ phòng khách, nơi đặt một bộ xa-lông gỗ có bốn ghế và một bàn thờ nhỏ trên có hình một ông quan ngồi trên một ghế có tay chạm trổ, đầu đội mũ cánh chuồn, mặc áo thụng hai tay để trên đùi, kế bên là chân dung của một bà cụ vấn khăn, mặc áo the thâm có lẽ là song thân của Tuấn Đạt, chàng dẫn Giáng Vân qua những gian phòng khác. Trước hết là phòng ngủ với cái giường nhỏ và tấm nệm mỏng một bên, trên giường có một cuốn sách Phật giáo của một tác giả người Pháp. Bên kia sát vách là kệ sách với những cuốn sách cũ dính bụi; trên một ngăn trống đặt một khung hình chụp đã ố vàng lộng chân dung một phụ nữ. Tuấn Đạt định lật úp khung hình vào trong nhưng không kịp vì Giáng Vân kêu lên:
“Ôi, ai đây sao mà giống mẹ cháu thế?”
“Một người bạn học cũ… giống thôi…” Tuấn Đạt ngượng ngùng nói, vì đó chính là hình của Thể Vân ngày xưa khi họ mới yêu nhau.
Sau đó họ qua một phòng khác trông giống một phòng thí nghiệm với những bộ sưu tập và những mẫu vật: bướm, các loài côn trùng đã chích phóoc-môn, các mẫu đá có vết tích hóa thạch. Ở một góc để những dụng cụ làm vườn, mấy cái lồng chim cũ, một cái chuồng thỏ, hai cái vợt bắt bướm, một cần câu cá, một cái võng đã được tháo ra một đầu vắt lên một cái móc trên cột nhà. Trên một bàn dài, Giáng Vân cầm một hộp giấy với những con bướm găm vào giấy cứng bọc vải nhung bằng những kim ghim, nàng nói:
“Ồ đẹp quá đủ mọi loài với những hoa văn và màu sắc của đôi cánh.”
“Chỉ tiếc con tim của chúng đều khô héo…” Tuấn Đạt như nói một mình nhưng Giáng Vân đã nghe thấy.
“Chú chuyên sưu tập những cái đã chết.” Giáng Vân khiêu khích.
“Nhưng đàng sau cái chết ấy là một lịch sử, những thời kỳ và những kỷ niệm đã qua… Để chú giải thích cho cháu nghe…”
Lúc đó hai người đứng sát cạnh nhau bên một cái bàn dài và chú Tuấn Đạt ngửi thấy mùi tóc thoảng hương nước hoa Pháp của Giáng Vân. Chàng cầm một khúc thân cây đỏ như máu thịt bò, chỉ cho Giáng Vân thấy những vòng tròn đồng tâm và hướng dẫn cách tính tuổi của cây như trong một giờ sinh vật rồi cười nói:
“Chú không nói quá khi dùng từ ‘kỷ niệm’ đấy chứ.”
Giáng Vân định nói “Kỷ niệm phải có vui buồn chứ,” nhưng thôi không nói.
Một khắc sau, hai người đã đến khu vườn sau nhà, dưới bóng những cây bạch đàn lọc nắng là những cây hoa giống với đủ mọi kiểu hoa, kiểu lá và mọi màu sắc trồng trong những chậu đất nhỏ. Đứng giữa vườn trong nắng êm và gió nhẹ, Giáng Vân nhìn ngắm mãn nhãn các loài hoa. Mái tóc nàng rung động theo gió; cái áo lụa hoa, cổ lá sen, tay dài măng sết dính vào người nàng vì lộng gió làm nổi những đường nét một bên thân nàng,. Hình ảnh ấy của Giáng Vân làm Tuấn Đạt phải thờ thẫn quay mặt hướng khác, mắt nhắm lại tưởng đã gặp lại Thể Vân hồi còn con gái và lòng chàng rên siết: “Không lẽ thời gian đã quay lại với mình và Thể Vân ngày ấy… hơn hai mươi năm rồi còn gì.”
“Sao chú không lấy vợ?” Giáng Vân hỏi làm ra vẻ bất chợt.
“Ừ ngày xưa chú cũng có nghĩ đến, nhưng sau một lần yêu, chú thường tự hỏi có nên lấy vợ không…”
“Và chú chưa tìm được lời đáp thỏa đáng chứ gì…” Giáng Vân nói nối đuôi.
“Cháu biết đấy, càng cân nhắc việc này, càng ít có quyết tâm…” Tuấn Đạt buồn buồn nói, sau đó chàng cười gượng và nói tiếp, “Thôi bây giờ cháu vào nấu cơm đi, chú phải đi ra chợ Nhỏ mua ít thức ăn, đi ngõ tắt cũng nhanh thôi ” Nói xong chàng đi về phía cổng hàng rào. Phần Giáng Vân nhìn theo một người đàn ông đi chợ, tâm trạng ái ngại và cảm thương. Không để mất thời gian, Giáng Vân vào bếp bắc nồi cơm, rồi chạy bay vào phòng ngủ đứng ngay chổ khung ảnh nhìn lên kệ sách, nàng nhận thấy trên hai hàng kệ có mấy quyển vở bọc trong giấy xanh đã phai màu. Nàng nhảy vội lên bàn lấy xuống. Nàng mở trang đầu tiên và nhận ra hai quyển vở ấy là hai quyển nhật ký.Trong lúc lật thử vài trang một bức hình khác rơi ra trên mặt bàn. Nàng nhận ra bức hình toàn thân của mẹ nàng ngày xưa vì trong album ở nhà nàng cũng có hình ấy. Nàng nhảy xuống bàn, nhặt bức hình cho vào vở, rồi nhét hai quyển nhật ký vào cái túi vải của nàng, sau đó trở lại nhà bếp nhìn vào ánh lửa tự nhủ, “Mình sẽ biết được vì sao lần ấy mẹ mình đã khóc…”
Chưa đầy một giờ sau, Tuấn Đạt đã trở về với túi giấy thực phẩm trên tay – chả lụa, thịt bò, rau cần v.v… Chàng thấy Giáng Vân cầm một cái vợt đuổi theo một con bướm trong vườn. Chàng vào thẳng trong bếp thấy nồi cơm đã cạn nước chờ chín, lấy đồ ăn trong túi tự m´nh chuẩn bị để xào nấu: chả lụa kho với thịt heo, th?t bò xào với rau cần, mồng tơi nấu canh với tôm khô. Ngày thường đi làm chàng không phải lo cơm nước vì ăn cơm tháng trưa và chiều trong sở Lâm Nghiệp. Chàng đang thái thịt, Giáng Vân từ ngoài vườn chạy vào tay cầm cái lọ bằng thủy tinh trong đó có hai con bướm và nói:
“Cháu bắt được hai con bướm, trưa nay chú phải chỉ cháu cách lưu giữ nó.”
“Được thôi” Tuấn Đạt ngước lên nhìn vẻ rạng rỡ của Giáng Vân và thấy cô bé đẹp thêm.
“Chú để Vân nấu nướng cho …” nàng nói, ngạc nhiên thầy mình xưng tên thay cho chữ “cháu”.
“Thì lại đây ta cùng làm cho nhanh,” Tuấn Đạt nói khi nhớ lại có lần chàng đến nhà Thể Vân nói chuyện với nhau khi nàng đang làm bếp.
Gian bếp khá nhỏ đối với hai người, nên thỉnh thoảng họ lại chạm vào nhau, nhẹ nhàng thôi và cũng rất vô tình, nhưng đủ để đánh thức trong chàng một cảm xúc chàng đã để chết khô từ lâu kể từ ngày Thể Vân trở thành bà Tri Tân vì họ là bạn của nhau trước khi chàng quen biết và kết nghĩa anh em với ông Tri Tân. Cảm xúc ấy là gì? Có lẽ là cảm thức về một người khác phái mà mình có thể yêu đương và chiếm hữu như một … con tin. Bất chợt Tuấn Đạt rùng mình ngạc nhiên sao trong đầu chàng lại nảy ra từ ngữ ấy. Sau cùng chàng nhớ vừa qua chàng đã đọc hai cuốn tuyện trinh thám của một tác giả Pháp. Một kẻ tình địch cũ sau một thời gian dài lưu lạc bắt cóc con của một cặp vợ chồng để buộc người mẹ là người yêu cũ của hắn đến gặp hắn và chuộc lại con mình bằng sự hiến thân.
Sau cùng bữa ăn được dọn ra ngon lành và nóng sốt. Tuấn Đạt dùng đủa gắp qua một lượt ăn thử, gật gù nói:
“Khá lắm, không đến nỗi tệ,” rồi giục Giáng Vân, “An đi kẻo nguội…”
“Kẻo chú ăn hết thì có…” nàng cười nói.
Cả hai vừa ăn vừa nói cười vui vẻ. Họ nhắc lại những kỷ niệm xa xưa, khi Giáng Vân là một cô bé năm bảy tuổi, trước đó nữa, những lần chú Tuấn Đạt đến đều mua bánh kẹo cho Mạnh Thông và nàng, hay những truyện tranh và sách học, chú còn dạy toán cho Mạnh Thông và tiếng Pháp cho nàng và có khi chú ở lại đến xế chiều mới về. Giữa bữa ăn, Tuấn Đạt nhớ còn một chai rượu Tây, liền hỏi:
“Vân uống rượu vang trắng không, chú lấy cho một ly”
Lần này nàng thấy chú Đạt dùng tên nàng để gọi, nàng lắc đầu đáp:
“Không, Vân không uống.”
Một lúc sau bữa ăn sắp xong với những trái vải để tráng miệng mà nàng mua trên đường đến đây.. Lúc này ly rượu Tây cũng cạn, Tuấn Đạt hỏi bâng quơ:
“Chắc Vân có nhiều bạn ở trường?”
“Bạn gái một vài đứa, bạn trai thì không.”
“Vân nói xạo, đẹp gái thế kia mà không có vài anh theo đuôi sao?”
“Thế đấy, Vân cứ nghĩ mình vô duyên, nhưng một hôm một anh trong lớp nói thẳng, ‘Nhà Vân sang trọng quá, khó chơi lắm’.”
“Vân nghĩ thế nào?”
“Vân nghĩ câu nói thẳng ấy chưa chắc đúng và có phần nào chủ quan,” rồi nàng nói tiếp, “Thôi nói chuyện khác đi chú, Vân muốn nghe chú nói về cuốn sách chú đang đọc.” Từ ngày bà Tri Tân làm hội phó Hội chấn hưng Phật giáo, Tuấn Đạt cũng tìm đọc các sách Phật giáo của các tác giả Tây phương.
“Về đạo Phật?” chàng hỏi lại.
“Phải, Vân cũng muốn biết…”
“Được thôi nhưng phải nói trước là các tác giả Tây Phương thường hay nói về triết học hơn là tôn giáo khi họ viết về đề tài Phật giáo. Triết lý là cái học thuyết trong đạo còn tôn giáo chỉ gồm một số nghi thức, lễ lạy và tổ chức tăng ni, chùa chiền phục vụ cho việc lễ lạy đó.
“Tác giả cuốn sách chú đang đọc nói thực tại tối hậu của Phật giáo là cái không tính mà theo ông là kết quả của phương pháp phủ định. Ông so sánh: nếu bản thể luận của Phương Tây thường đi từ những hữu thể hiện tại đa tạp, tương đối ngược lên mãi và sau cùng phải dừng lại ở một hữu thể tuyệt đối và thường hằng ban đầu là nguyên lý của mọi hữu thể thì Phật giáo đi từ phủ định những sự vật của thế giới thường nghiệm, ngược lên mãi sau cùng cũng phải dừng lại ở không tính. Về mặt lý luận tiến trình đó đi qua ba giai đoạn: giai đoạn đầu tiên là giai đoạn thường nghiệm với một khẳng định về thực tại thường nghiệm; giai đoạn hai là giai đoạn phủ định nghĩa là tương đối hóa thường nghiệm bằng các đặc tính vô thường, khổ não, vô ngã để phủ nhận, buông bỏ nó; giai đoạn ba là giai đoạn phủ định của phủ định nghĩa là buông bỏ hai giai đoạn đầu để đi vào các chân lý vô vi. Hai giai đoạn đầu còn được gọi chung là tục đế giai đoạn cuối được gọi là chân đế.”
“Như vậy giai đọan sau cùng còn giữ lại gì của giai đoạn đầu tiên không?” Giáng Vân hỏi.
“Giữ lại cái tính, được gọi là không và khó xác định nó là một thực thể hay một bản thể, vì nó nằm ngoài khả năng của ngôn ngữ nên Phật giáo nói là ‘bất khả tư nghị’. Trong khi với nho giáo khi nói đến tính là nói đến câu định nghĩa kinh điển ‘Thiên mệnh chi vị tính’, nghĩa là với nho giáo tính mà không là vô nghĩa, tính thuộc về tinh thần (thiên mệnh) không phải là phần vật chất do âm dươg tạo thành”. Rồi chàng nói tiếp, “Chú chỉ lặp lại sự trình bày của tác giả cuốn sách. Còn việc nó có đúng với Phật giáo chính thống hoặc đúng với thực tế hay không thì chú không biết. Nhưng chú phải nói rằng cách viết của ông Tây rõ ràng dễ hiểu không giống như của đa số các học giả Á Châu thường chỉ lặp lại Phật pháp một cách giáo điều nghĩa là không cần chứng minh thuyết phục hoặc dùng một cách viết tối tăm bí hiểm chỉ để chứng tỏ mình cao đạo .”
“Vân cũng nhận thấy như chú vì mẹ hiện có một sư thầy là Quảng Trí truyền dạy Phật pháp. Vân đoán mẹ chẳng hiểu gì nhưng cứ ngoan ngoản ngồi nghe hàng mấy giờ liền…” Giáng Vân nói đúng về mẹ nàng nhưng nàng đâu biết bà Tri Tân nào có nghe mà chỉ ngắm khuôn mặt khá đẹp trai của Quảng Trí như mẹ hiền ngắm con thơ…
Sau khi Giáng Vân đã dọn bàn ăn sạch sẽ chỉ để lại đĩa trái cây và bình trà nóng với hai cái ly, rồi ngồi xuống đối diện chủ yếu để ngắm khuôn mặt rắn rỏi và điềm đạm của chàng, Tuấn Đạt nói tiếp:
“Nếu tục đế được nhận thức bằng trí tuệ thường nghiệm nhị nguyên – nghĩa là có mâu thuẩn đối đãi hoặc chối bỏ nhau như trắng/ đen, có/ không, thiện/ ác – thì chân đế tức là những đối tượng tuyệt đối, vô vi được nhận thức bằng trí huệ phi nhị nguyên, vượt lên sự nhị nguyên đối đãi còn gọi là trí huệ đáo bỉ ngạn. Như thế có một sự đứt đoạn (coupure) triệt để như một con sông to sóng lớn với kình ngư và thủy quái hoặc một vực thẳm mà lý tính thông thường không qua được trong lúc người đi qua sông đó chỉ có một cái cầu khỉ cheo leo, một cái gì rất mong manh như lưỡi dao cạo. Vả lại lúc qua sông là lúc phá bỏ hết mọi phạm trù của lý trí như bản thể, như nhân quả, như triệt tam… hoặc giữ một thái độ im lặng gọi là im-lặng-hố-thẳm.
Dù phá bỏ ngôn ngữ nhị nguyên thì cũng khó tránh được việc phải quy chiếu vào ngôn ngữ đó như ngôn ngữ biểu đạt để đánh giá mức độ vượt qua của người tu học, đặc biệt của những người theo tông phái Thiền. Vì thế chỗ đứt đoạn này là nơi vàng thau lẫn lộn, là chỗ sự nhập nhằng trong lập ngôn xuất hiện. Với người chân tu đắc đạo đây là nơi có những công án xuất thần, những bài kệ uyên áo và những châm ngôn được nắm bắt bằng sự lóe sáng của trực giác. Còn với kẻ đại ngôn, lộng ngữ chỗ đứt đoạn ấy chính là chỗ sử dụng lẫn lộn chân đế với tục đế: lấy tục đế biện minh cho chân đế mà mình chưa đạt, hoặc lấy chân đế để biện minh chỗ tục đế mà mình không hiểu thấu. Đó là chỗ kẻ ngạo mạn lấy tư kiến thay cho sự minh chiếu giác ngộ để dối gạt tín đồ bằng những cách phát biểu nghịch lý gây ấn tượng.
Như vậy trong tri thức luận, Phật giáo đã bỏ chung hai học thuyết: duy nghiệm trong phần tục đế, duy tâm bất định và bất khả tri trong phần chân đế, trừ chỗ đứt đoạn là nơi chân giả khó lường. Chỗ đứt đoạn ấy khiến người ta phải cho rằng Phật giáo chủ trương hai thứ lý trí trong một con người; chúng vừa sống chung vừa loại trừ lẫn nhau. Với việc bỏ chung một chỗ hai quan điểm tri thức nên Phật giáo có thể cùng lúc thực hiện hai chức năng: biện minh và an ủi ví dụ như biện minh cho kẻ bóc lột và an ủi kẻ bị bóc lột, vuốt ve kẻ chính lẫn người tà. Đó là ý nghĩa chữ sự sự vô ngại của đạo ấy, ông Tây tác giả đã mỉa mai như thế.”
“Và phải chăng chỗ đứt đoạn ấy cũng là chỗ kẻ “giả tu” mượn chữ “phá chấp” để che giấu thị dục thấp hèn mà mình đang thoả mãn như ăn thịt cầy, uống rượu, chơi gái… Lại còn phát biểu: rượu không là rượu, gái không là gái sao còn làm ô nhiễm ta được.” “Đúng vậy, chỗ này là con dao hai lưỡi sẽ giết chết kẻ sơ cơ sử dụng nó.”
“Như vậy ông Tây tác giả đó không tán thành Phật giáo?” Giáng Vân hỏi.
“Dĩ nhiên là không rồi vì khi đối chiếu với triết học Kant, ông Tây ấy nói Kant cũng cho rằng Lý trí thuần túy không thể đạt đến nhận thức tuyệt đối (connaissances des absolus) tức là chân đế nhưng không vì thế mà phá bỏ lý trí ấy là công cụ tốt của khoa học. Vả lại Kant đề nghị một cách khác để tiếp cận tuyệt đối là Lý trí thực hành, cụ thể là ý thức đạo đức và đó là chiếc cầu bằng đá đi qua con sông hiểm trở ấy. Sau đó ông Tây còn giải thích châm ngôn ‘Trí lương tri’ của Vương Dương Minh theo ý nghĩa một câu khác của nhà nho ‘Thiên lý tại nhân tâm’ và nói rằng cũng giống Kant, nhà nho Vương Dương Minh đã gặp Trời nhờ đạo đức hoặc cái lương tri chứ không phải bằng lý trí thường nghiệm. Lý trí thường nghiệm này ở một chỗ khác, họ Vương cũng giải thích theo hướng khoa học câu châm ngôn cách vật trí tri của lý trí thuần túy, sử dụng trong thế giới thường nghiệm, cách vật đây chính là quan sát và thí nghiệm như trong khoa học thực nghiệm. Tóm lại với Kant và Vương Dương Minh không hề có hai thứ lý trí; lý trí đơn nhất nơi một con người nhưng có hai chức năng khác nhau, và có tính tự trị với hai cách hoạt động khác nhau trước hai loại đối tượng, tương đối và tuyệt đối.”
“Vậy đó là chỗ tương đồng giữa Kant và họ Vương?” Giáng Vân thích thú hỏi.
“Tác giả nói thế. Nhưng Kant lập ngôn chặt chẽ và sử dụng luận lý học của Phương Tây…”
“Và nếu Vân không lầm chính chỗ đứt đoạn chân-tục ấy là mảnh đất đã làm xuất hiện những “ác tăng” thời mạt pháp?” Giáng Vân nói trong khi nhớ lại lần trước cái nhìn đầy dục vọng của Quảng Trí chiếu vào nàng.
“Đã hẳn là thế, vì khi bắt chước kẻ đạt đạo nói những điều bí hiểm, nghịch lý mà tâm chưa đạt cảnh giới giác ngộ, kẻ lộng ngộn dễ khiến người ta bái phục vì nỗi sợ hãi mà người ta thường gặp trước điều mình không hiểu như khi đứng trước một người xa lạ với đôi mắt đeo kính râm đang trừng trừng nhìn vào mình. Kẻ lộng ngôn ấy do hậu quả của ngụy tín, sau cùng rơi vào sự ngạo mạn kiêu căng vì tưởng mình đang đứng trên đỉnh cao chân lý hạ cố nhìn những kẻ tầm thường vô minh còn quờ quạng trong bóng tối….”
“Thái độ tự kỷ ấy đâu thể gọi là vô ngã được…” Giáng Vân nhận xét.
“Đúng, ông Tây tác giả còn nhắc lại sự phê bình của danh nho Chu Hy đối với Phật giáo. Đại khái, Chu Hy cho rằng không thể xây dựng một đạo đức học trên cái không (non-être) của Phật giáo được, dù đó là không tính (le vide). Ví dụ phải CÓ vua, có tôi mới nên nghĩa quân thần, v.v… nghĩa là phải có Trật Tự. Chu Hy còn nói rằng khi chưa có một ông vua và bề tôi cụ thể thì Đạo Quân thần đã CÓ trong thiên lý rồi. Từ đó chú suy ra rằng sự kiện nho giáo suy vi như hiện nay khiến Phật giáo mất đi một chỗ dựa đạo đức nhất là đạo đức xã hội sẽ làm cho quá trình mạt pháp của Phật giáo đến sớm hơn.” Tuấn Đạt ngừng lại mấy giây rồi nói tiếp, “Còn mấy vấn đề nữa trong cuốn sách đó, nhưng để hôm nào rảnh chú sẽ nói tiếp”
“Vậy bây giờ chú chỉ cho Vân cách giữ khô hai con bướm bắt được sáng nay đi”
“Ừ để chú chỉ vàVân tự làm trong lúc chú nghỉ trưa một tý”
Hai người qua phòng sưu tầm, Giáng Vân ngồi xuống một cái ghế trước bàn, bên dưới một cái đèn tròn đục có chụp đèn sơn trắng chiếu vào hai con bướm trong lọ thủy tinh. Tuấn Đạt đứng bên chỉ cho nàng những bước phải làm, có lúc chàng vô tình đứng sát vào lưng nàng hoặc cầm bàn tay xinh xắn thon dài mát mẻ của nàng để hướng dẫn. Những lúc đó chàng thấy nàng đỏ mặt. Sau đó Tuấn Đạt nói:
“Bây giờ Vân tự làm lấy đi, làm xong thì cứ ra về, nhớ khép cửa hàng rào lại. Lần sau ta lại gặp.”
Rồi Tuấn Đạt về phòng ngủ ngã lưng xuống tấm nệm cũ, nhắm mắt lại nghe tiếng chim hót trong mấy cái lồng treo ngoài vườn.. Thật ra chàng chưa tới cái tuổi khá cao cần có một giấc ngủ trưa dù đó là một ngày nghỉ nhưng chàng đang bối rối mà giấc ngủ có thể làm cho quên đi. Giáng Vân chính là hình ảnh của Thể Vân ngày xưa với một mối tình tay ba: Tri Tân, Tuấn Đạt và Thể Vân mà chàng là người thất bại dù không bị lọai trừ. Rồi bây giờ chàng gặp lại hình ảnh mà chàng nghĩ đã trôi vào quên lãng. Điều làm chàng bối rối không chỉ vì kỷ niệm sống lại mà còn vì lòng chàng cảm thấy xúc động như xưa. Đột nhiên chàng mỉm cười tự nhủ “Nếu Giáng Vân là tục đế thì ai sẽ là chân đế?” Sau cùng một giấc ngủ chập chờn cũng đến. Trong giấc ngủ ấy chàng mơ thấy một miền quê và một dòng sông, trong dòng sông lấp loáng ấy chàng và Thể Vân để nguyên áo quần đang bơi lội vui đùa. Có những lúc họ dừng lại bên nhau hai đôi chân quấn vào nhau. Mặt Thể Vân thẹn thùng đỏ lên sau làn nước. Rồi họ lên bờ và quần áo Thể Vân dính vào người trông rất rõ các đường nét. Một lúc sau, Thể Vân thấy một con bướm chết khô mắc vào một lưới nhện trong một lùm cây, nàng kêu Tuấn Đạt đến gần. Tuấn Đạt nói, “Để anh đặt cho nó một cái tên?” Nàng hỏi, “Tên gì?” Tuấn Đạt nói, “Di Vân.” Rồi cả hai cùng cười vui trong nắng sớm ven sông. Giấc mơ kết thúc khi chàng nghĩ phải giữ con bướm ấy lại bên chàng mãi mãi bằng cách ép khô vào giữa hai trang sách của kinh Phật. Khi chàng thức dậy trời vẫn còn trưa. Chàng vào phòng thí nghiệm, trong ánh sáng mờ tối chàng nhìn hai con bướm đã được ghim rất khéo trên giấy bìa bọc nhung đen. Sau đó chàng vào nhà bếp thấy chén bát đã được rửa sạch và úp vào chạn để bát. Tưởng Giáng Vân đã về, chàng quay lại phòng thí nghiệm, cầm hai con bướm vàng lên nói khá to như than thở: “Thế mà mình tưởng tim mình đã khô héo như những con bướm này. Không lẽ tình yêu lại đến ở tuổi này sao? mà con bé là con cô ấy… khổ thân tôi…”
Chàng định quay ra và tưởng mình đi giữa đám mây bóng tối của đêm đã đến sớm và bay vào nhà. Bỗng nhiên chàng thấy cái võng đã được mắc lên lại trên đó Giáng Vân đang nằm ngủ hai tay khoanh trước ngực. Chàng tự hỏi cô bé có nghe những lời chàng vừa than thở hay không. Chàng bật đèn lên tiến lại góc tối đó. Rõ ràng cô bé đang ngủ, đôi lông mi dài cong rủ xuống, cánh mũi phập phồng. Chàng đứng như trồng ngắm nhìn những đường nét nằm ngang của thân thể và khuôn mặt nàng, mái tóc cũng lòa xòa như khi tung bay trong vườn lộng gió sáng nay. Chàng muốn hôn lên trán nàng nhưng thôi, bước ra vườn uống trà một mình, khoảng một giờ sau quay lại đến bên võng và khẽ khàng gọi: “Giáng Vân, dậy về đi thôi tối rồi …”
Lần thứ ba, nàng mở mắt ra nhìn chàng đằm thắm một lúc và nói:
“Vân đã ngủ quên vì nơi này gió mát như ở bên sông, bây giờ mấy giờ rồi chú?”
“Năm giờ chiều rồi …” “Muộn thế ư, Vân về thôi, lần sau Vân sẽ đến.” Rồi nàng nói bâng quơ như để chữa lỗi, “Hồi trước bố có cho Vân một cái đồng hồ đeo tay trước khi đi Hải Phòng. Tiếc là Vân đã đánh mất trong một lần đi trại hè của trường…”
Rửa mặt cho tỉnh táo xong, nàng cầm lấy cái túi xách ra đến cổng, nàng nói thật nhanh với chú Tuấn Đạt đứng sau cánh cửa rào một câu tiếng Pháp:
“Hôm nay Vân đã tìm được một bạn trai, đó là chú!” (C’est toi!)
Rồi nàng đỏ mặt, bỏ đi nhanh trong buổi chiều vàng sắp tắt, trong khi Tuấn Đạt còn đứng ngẩn ngơ trước nhà bên cạnh mấy bụi trúc một lúc lâu để mình hoàn toàn tan biến làm một với bóng tối của một buổi hoàng hôn.
Hai đêm liền sau đó, Giáng Vân lấy nhật ký Tuấn Đạt ra đọc, không phải chỉ vì tò mò nữa mà còn vì một tâm trạng rộn ràng khó tả. Nàng đã nghe thấy những lời than thở của Tuấn Đạt, nào là một tình yêu thầm kín, nào là mặc cảm tuổi tác và còn gắn mình với mẹ mình nữa. Khi nằm trên võng nàng không ngủ nhưng chỉ đợi chú ấy thức dậy để nói với chú ấy một khám phá rất lý thú của nàng: tìm thấy chú như một bạn trai. Rồi sau đó sẽ hồi hộp để nói ra, và nàng đã nói. Để làm gì? Hiện giờ nàng không biết nhưng cần phải nói. Những dòng nhật ký đã nhạt nhòa với thời gian, có những đoạn mất chữ, nhưng phần lớn đều đọc được và những đoạn nàng nhớ rất rõ vì đọc lại nhiều lần.
Ngày 15 tháng 10
Mình tình cờ gặp lại Thể Vân ở trường Lâm, nàng học khoa thú y […] Mình tưởng mối tình học trò của mình sẽ đi vào quên lãng khi rời khỏi mái trường trung học ở quê nhà để vào Cao Đẳng ở Hà Nội. Cuối năm học ở quê, hai đứa giận nhau vì một việc không đâu. Hôm lễ hội đình làng, mình đến muộn, cô ấy phải đi chung với anh chàng cùng lớp. Anh chàng này có những lời chọc ghẹo bất nhã. Khi mình đến ba người miễn cưỡng đi chơi chung với nhau và rất khó chịu. Một lúc sau đó bị nàng trách mắng, anh ta chế giễu mẹ nàng là tình nhân của sư chùa làng và bỏ đi.Đáng lẽ lúc đó mình phải bắt anh ta quay lại xin lỗi nàng nhưng mình đã không làm. Ngày hôm sau cô ấy giận mình. Mặc dù hai đứa đã nói yêu nhau. Cô ấy nói “Anh thích thú khi thấy ngưới khác sỉ nhục em, vả lại em đâu xứng đáng để anh yêu, có lẽ anh chỉ yêu em trong một phút bồng bột…”
Bây giờ mình sẽ nghiêm túc hỏi lại lòng mình. Có thể đây là một cơ hội hòa giải.
Ngày 20 tháng 10
Hôm nay Chủ nhật mình đi chơi vài nơi ở Hà Nội với Thể Vân, sau cùng trong ghế đá một công viên, mình xin lỗi cô ấy và nói rằng mình vẫn luôn yêu cô ấy. Mình xin cô ấy bỏ qua chuyện cũ và hãy hòa giải với nhau. Hãy để cơ hội đến cho cả hai người, mình nói, nhân danh những kỷ niệm đẹp và thơ ngây tuổi học trò. Thể Vân mỉm cười, gật đầu nhưng không nói.
Ngày 23 tháng 10
Tình cờ gặp nhau ở một quán nước gần trường sau ba tiết học. Lần này cô ấy kéo mình vào một góc và nói rằng cô ấy vẫn còn yêu mình.Nàng nói trước đây nàng giận mình vì quá yêu mình và việc mình đến trễ trong đêm lễ hội của làng đã làm hỏng một buổi tối lãng mạn của hai đứa. Hôm đó nàng định kéo chàng ra bờ sông cách xa lễ hội để tha hồ tâm sự kể cả dư luận về câu chuyện của mẹ nàng.Cả hai đều đồng ý mọi sự sẽ được bắt đầu lại từ hôm nay. Mình rất vui và phấn khởi.
Ngày 27 tháng 10
Sáng nay hai người ngồi trong quán nước, Tri Tân sau đó bước vào và đến chỗ mình ngồi, mình phải giới thiệu Thể Vân với Tri Tân. Anh chàngsinh viên trường luật này vồn vã với nàng ngay khiến nàng phải vừa nhìn mình vừa trả lời anh ta.Đúng là miệng lưỡi của mấy anh chàng học luật.Khi ra khỏi quán, anh ta hỏi mình có gì với cô bạn gái ấy không. Mình nói mình yêu cô ấy và sẽ còn muốn tiến xa [không hiểu sao mình lại thiếu tự tin như thế]. Hình như Tri Tân hiểu chữ xa là xa cách nên hí hửng nói lúc này hãy để cho anh chàng cùng chăm lo cho cô ấy. Mình nghĩ Tri Tân nói đùa vì biết tính cách lẳng lơ của anh ta. Một anh chàng “vui đâu chúc đó”.
Ngày 3 tháng 11
Hôm nay là ngày sinh nhật của Thể Vân. Sáng sớm mình từ lớp nông lâm chạy qua lớp thú y để đưa quà cho Thể Vân: một cuốn tiểu thuyết của Alphonse Daudet, một cành hoa cúc và một cái thiệp tự làm. Sau lời chúc, mình nói chưa bao giờ mình yêu nàng như lúc này và hy vọng tình yêu sẽ còn lớn lên và đẹp hơn nữa. Buổi trưa hai đứa đi ăn cơm chung với nhau rồi mình đưa Thể Vân về nhà trọ. Mình không vào vì cô ấy nói hai đứa bạn ở chung hôm ấy không có giờ học đều ở nhà.Mình về nghĩ ngợi mấy nhận xét của nàng trong lúc ăn cơm. “Anh Tri Tân có sự nồng nhiệt nhiều lúc làm em sợ. Giá mà anh có được một nửa sự nồng nhiệt ấy,” rồi nàng nói tiếp, “Tri Tân có sự tự tin của một con nhà giàu, còn anh đang tìm kiếm sự tự tin của một người sẽ thành danh…” Mình không nói lời nào về nhận định ấy và mình chỉ cảm thấy rất khó chịu với cách so sánh ấy. Sau này mình biết được, chiều tối hôm đó, Tri Tân đã đi thẳng vào nhà trọ của nàng. Buổi tối đó họ đi chơi với nhau trong lúc mình vật lộn với một bài toán sinh học.
Ngày 8 tháng 11
Hôm nay Tri Tân đề nghị kết nghĩa anh em với mình. Tân nói nhàTân ít con trai nên rất quý bạn của con. Vả lại trong chương trình đầy tham vọng của bố Tân, gia đình sẽ khuếch trương nhiều hoạt động kinh doanh, Tân muốn mình sẽ có mặt trong bộ khung những hoạt động ấy và để sau này dễ thuyết phục gia đình, việc kết nghĩa này sẽ là một bảo đảm. Tri Tân học trường luật cũng vì mục đích lâu dài ấy. Mình đồng ý và coi đó như một cách sống gắn bó đoàn kết với bạn bè như những người trong cùng một phường hội. Nhưng chương trình của gia đình Tân trở nên quá xa vời khi cuộc chiến ngày càng ác liệt. Buổi tối Tri Tân dẫn mình và mấy anh em kết nghĩa khác đi ra đê Yên Phụ cắt máu ăn thề và gọi thịt cầy đánh chén để ghi nhớ ngày trọng đại ấy. Từ đó chủ nhật nào cả nhóm cùng họp tại nhà Tri Tân vào buổi trưa để ăn trưa có lai rai tí chút. Trong những lần ấy Tri Tân không hề nhắc tới Thể Vân, cũng không cho biết đã thường xuyên đến thăm nàng, cho quà và giúp đỡ nàng về tiền bạc.
Ngày 13 tháng 11
Mấy ngày sau Thể Vân đã biết mình là em kết nghĩa của Tri Tân và nàng nhìn mình khá khó chịu như nhìn một kẻ ‘đầu cơ’ tình cảm bạn bè. Mình không ngờ tình cảnh biến chuyển như thế và thấy hối hận với việc kết nghĩa ấy, đồng thời mình cũng thấy nàng có vẻ xa lánh mình. Mình thấy nàng có những quần áo mới (khiến nàng trông đẹp hơn) những đồ dùng mới và hình như một chiếc xe đạp mới mà nàng nói dối là mượn của bạn. Hình như nàng còn có môt sợi dây vàng đeo cổ mà nàng giấu trong áo.
Ngày 20 tháng 12
Còn mấy ngày nữa là kỳ nghĩ Nô-en và Tết Tây kéo dài hai tuần. Trong lúc đi dự triển lãm các mặt hàng nông sản và lâm sản xuất khầu, mình có hỏi nàng về quê ngày nào để cùng về. Nàng nói nàng sẽ về sau ngày 27 vì còn đi thăm một người họ hàng làm nghề chăn nuôi ở Hải Dương trong một trang trại nhân đó tham quan bầy gia súc. Mình nói sẽ về quê trước và sẽ gặp lại nàng sau đó tại quê nhà, và sẽ đến mời nàng nhân dịp nhà chàng có đám giỗ.
Ngày 23 tháng 12
Nàng đưa mình ra bến xe và ở lại nói chuyện cho đến khi xe chạy. Nàng xác nhận một tình yêu không thay đổi và gởi cho bố mẹ mình một ký trà một ký vải khô. Hình như nàng đã khóc khi xe lăn bánh. Mình không hiểu vì sao nàng lại khóc.
Khi ngồi trên xe còn cách Ninh Bình hai mươi cây số, mình chợt nhớ gia đình Tri Tân có một trang trại lớn ở Hải Dương. Lúc đó mình muốn quay lại Hà Nội nhưng thôi vì tâm trạng rối bời chán ngán. Sau này một anh em kết nghĩa với Tri Tân kề lại đêm 24 họ chè chén tới hai giờ sáng, Thể Vân đã bị ép uống mấy ly rượu Tây và ngà say ph?i ngủ lại trong phòng của Tri Tân; trước đó nàng đã được Tri Tân giới thiệu là vị hôn thê của mình. Chín giờ sáng hôm sau hai người đi ra Hải Dương trên ô tô nhà, ở lại hai đêm trong một căn nhà gỗ, cơm nước do bác bảo vệ nấu ở nhà và đem vào. Sáng 27 họ mới quay về.
Ngày 7 tháng 1
Từ sau ngày về quê nghỉ mình không sao gặp được Thể Vân, mỗi lần đến nhà mẹ nàng đều nói nàng đi vắng. Có một lần mình hỏi một người láng giềng về nàng bà ta nói, “Con gái sư cụ đi với một cậu trai giàu có bằng ô tô rồi, nghe nói họ đang chuẩn bị đám cưới…”Tại sao là ‘con gái sư cụ’ vì người ta đồn rằng cha nàng mất sớm, mẹ nàng rất vất vả, nhiều khi không có cái mà ăn phải qua mượn gạo của ông sư chùa làng nhưng không bao giờ trả mà chỉ đến giúp quét dọn trong chùa kể cả trong phòng riêng của sư có khi đến khuya mới về… Lời đồn đại ác ý như thế không thể tin được.
Ngày 7 tháng 3
Ngày tận thế của mình. Ngày cưới của Tri Tân và Thể Vân ghi bằng chữ vàng trong thiệp cưới của họ.
Đó là mấy cái mốc quan trọng trong cuốn vở đầu tiên. Trong cuốn vở thứ hai chú Tuấn Đạt nói nhiều về việc học, về sở làm, về một bà trong sở tên Cúc giới thiệu chú cho em gái Thu Huyền nhưng chú không ưng, về những lần đến chơi nhà ông bà Tri Tân trong những ngày nghỉ, về những câu chuyện họ trao đổi chính trị có, văn hóa có. Đặc biệt có một kỷ niệm mà Giáng Vân còn nhớ như in:
Ngày 17 tháng 9
Ăn cơm trưa xong mình và Tri Tân lên phòng khách nói chuyện, cách đó tám thước là phòng ngủ của chủ nhà sát bên cầu thang. Thể Vân phụ chị bếp dọn dẹp rồi vào phòng nghỉ trưa và đọc tiếp cuốn truyện của Lan Khai. Mười phút sau bỗng có cơn dông ập tới cùng gió mạnh, sấm sét và những hạt mưa to. Mình đứng dậy ra đóng mấy cánh cửa, đồng thời bật cái đèn phòng khách vì ổ điện đặt bên cạnh khung cửa. Khi quay lại bộ ghế salông, mình không còn thấy Tri Tân đâu nữa, chỉ thấy Giáng Vân mặt mày tái mét vì sợ hãi tiếng sấm sét, gió mưa. Mình ngồi xuống bên cạnh con bé, ôm nó vào lòng mình và nói: “Cháu đừng sợ, có chú bên cạnh cháu …hai chú cháu mình vô địch”. Rồi mình bóc một cái kẹo đưa vào miệng nó. Lúc này nó đã yên tâm, nó nói rất dễ thương, “chú cũng phải ăn kẹo giống cháu” rồi nó bóc thêm một cái kẹo đưa vào miệng mình. Không hiểu sao lúc đó mình cảm thấy rất hạnh phúc mặc dù trong tiếng mưa to mình vẫn nghe thấy từ phòng họ vọng ra tiếng hai mgười rên rỉ khá to trong khi họ hành lạc. Mình tìm cách làm cho Giáng Vân tập trung tâm trí nên hỏi nó từ vựng tiếng Pháp: mưa là gì, bão tố là gì, sấm là gì, sét là gì v.v… con bé đều nói được. Hai mươi phút sau Thể Vân từ phòng đi ra trước, làm như không thấy mình, quay lưng lại và tiến về phía cầu thang. Dáng đi nàng thờ thẫn, khó nhọc như đau đớn ở khớp háng, một ống quần trắng bằng lụa mỏng của nàng bị rách một đường từ gấu đến giữa đùi như cái áo sườn xám xẻ hông. Mình tiếp tục hỏi con bé thêm mấy từ thật khó để nó tập trung, mấy phút sau, mình bảo Giáng Vân đi tìm anh Mạnh Thông.Khi nó rời khỏi lòng mình chạy đi, mình cảm thấy trống vắng cô độc và buồn chán lạ lùng như một tình cảm bị đánh mất, nếu đem so với những rên siết mà họ cố ý cho mình nghe thấy thì việc họ làm chẳng có nghĩa lý gì…
Ngày 23 tháng 9
Mình đã nếm trải sự đắng cay (chỗ này Giáng Vân không đọc ra mấy chữ: “của khổ nhục kế”) và trong lúc chờ đợi (chỗ này nàng cũng không đọc ra mấy chữ “ Cô Tô đài sụp đổ”), mình đã biến sự bội ước của cô ấy thành sự trừng phạt dày vò…
(Nàng không quan tâm ý nghĩa quan trọng những lời nhật ký ngày này vì mất chữ, mặc dù đây là những dòng chữ nguy hiểm đối với hạnh phúc tình yêu của nàng: nàng đang trở thành một con tin mà không biết).
Còn đây là lý do vì sao mẹ nàng đã khóc, sau một lần chú Tuấn Đạt đến thăm.
Ngày 21 tháng 11
Mình đến mà không ngờ họ đã ly thân.Tri Tân ra Hải Phòng cũng không báo cho mình biết dù có số điện thoại của mình ở sở Lâm nghiệp. Thể Vân nói vẫn yêu mình và muốn thường xuyên gặp mình để ông Tri Tân có cái cớ mà ly dị và hai người - mình và Thể Vân- sẽ làm lại từ đầu. Lúc đó mình không cần suy nghĩ nhiều chỉ nói, “Chị quên không biết tôi là em kết nghĩa của anh ấy sao? Nếu muốn chị hãy tiến hành việc này với người khác.”Rồi mình bỏ về…
Giáng Vân nghĩ mẹ mình không tốt trong cách hành động đó, nhưng nàng cũng nhận ra nỗi tuyệt vọng của mẹ sau một thời gian dài sống với cha nàng. Hẳn mẹ phải chịu đựng và âm thầm đau khổ. Bất chợt nàng nhớ đến bức ảnh bà ngọai mà mẹ đem về sau ngày bà mất và đặt trên bàn thờ, nàng muốn xem lại khuôn mặt bà ngọai bị mang tiếng đồn là “người tình của sư chùa làng”. Nàng lên lầu đến gian thờ không cần bật đèn điện vì luôn có thắp một cái đèn dầu con. Sau khi ngắm nhìn khuôn mặt bà, nàng thắp cho bà và cho anh Mạnh Thông một nén hương.
Thình lình nàng nghe có tiếng chân cửa sổ mở ngoài hành lang và tiếng người leo qua cửa. Nàng nhẹ nhàng leo lên tủ chè nhìn qua mấy ô mắt cáo bằng gạch, thấy một cái đầu tròn bóng đi đến cửa sổ phòng mẹ nàng. Lúc đó nàng liền chạy vòng ra phía trước ban công, nhẹ nhàng đi ngược lại hành lang thấy cửa sổ phòng sư Quảng Trí khép chưa kín, nàng khẽ lấy tay kéo ra, đèn trong phòng vẫn thắp sáng nhưng trên giường không có nhà sư. Nàng rón rén trở lại phòng mẹ, áp tai vào cửa sổ đã cài then lại bên trong. Nàng nghe thấy những tiếng thì thầm âu yếm rồi sau đó là tiếng quần thảo của hai người dưới sự chỉ huy của tình dục. Nàng xuýt kêu lên nhưng kềm lại bằng cách khoanh tay cong người ngồi bệch xuống nền gạch còn ướt đẫm sau cơn mưa chiều. Những âm thanh nhỏ sau đó vọng ra ngoài khiến nàng đứng bật dậy, chạy vội về phòng ngồi bệch xuống một góc phòng bụi bặm khóc nức nở. Nàng đã đánh mất một người mẹ mà mình yêu quý và hy vọng tìm lại được rất mong manh. Một lúc sau, hình ảnh của chú Tuấn Đạt đến với nàng với vòng tay ôm chặt trong trong cơn dông bão làm nàng nguôi ngoai. Nàng leo lên giường úp má vào nệm khóc thêm một lúc rồi chìm vào giấc ngủ.
Cuối tuần ấy Giáng Vân lại đến nhà chú Tuấn Đạt. Trên đường đi nàng không chỉ mua trái cây mà còn mua thức ăn thịt thà, rau quả, và cá để nấu ngót, nàng không muốn chú ấy phải bỏ công đi chợ. Ngồi dưới những bóng cây bạch đàn trong nắng sớm trên những khúc gỗ tròn cưa ngang cao khỏang hai tấc rưỡi dùng để làm ghế. Mũi hai bàn chân họ gần như đụng nhau. Tuấn Đạt nói:
“Lần sau Vân đến sẽ có cái bàn trụ, chú nhờ một xưởng cưa làm mặt bàn nhưng chưa xong.”
“Sao là ‘chú’, chú không thích làm bạn trai cháu sao?” nàng nhăn mặt nói.
“Chú Đạt già rồi, bốn bảy tuổi rồi còn gì…”
Hai người im lặng đằm thắm nhìn nhau một lúc, Giáng Vân nói tiếp:
“Vân muốn hỏi ý kiến chú về trường hợp của một cô bạn Vân trong trường Dược, chú cho phép không?”
“Đương nhiên, trừ chuyện chính trị…” Tuấn Đạt tự tin đáp.
“Chuyện gia đình và tình yêu …”
“Vân thử nói xem nào.” “Này nhé, mẹ cô bạn của Vân trước khi kết hôn một chàng công tử nhà giàu, có yêu một người ở quê. Từ đó người thanh niên này vẫn luôn thương nhớ mẹ bạn và không lấy vợ. Tình cờ cô bạn của Vân lại gặp người yêu xưa của mẹ mình bây giờ là một anh giáo viên nghèo lớn tuổi và hai người yêu nhau. Vậy hai người có lỗi gì khi yêu nhau không chú?”
“Thế trong lúc mẹ bạn Vân và người cùng quê yêu nhau, họ có dan díu với nhau không?”
“Không chú ạ, lúc đó họ là những học sinh mới lớn còn ngây thơ lắm,” nàng nháy mắt nói tiếp, “Thậm chí ở quê anh chàng còn ở truồng tắm mưa.”
“Sao bạn Vân không nói ‘ở truồng đi đánh lưới’ như Chữ Đồng Tử vì hai cha con chỉ có một cái quần để mặc chung” Tuấn Đạt nói.
“Có chuyện nghèo đến thế sao chú?”
“Có đấy …” rồi chàng nói tiếp, “Nếu hai người ấy chưa dan díu thì được, chỉ có điều tuổi tác chênh lệch khó thông cảm nhau thôi.”
“Vậy nếu họ có dan díu với nhau thì sao chú?” Giáng Vân tò mò hỏi tiếp.
“Theo chú thì không nên, vì như nhà nho nói một ngày nên nghĩa. Đó là tình nghĩa theo Á Đông mình chứ tình yêu Tây Phương có khác.”
“Vân hiểu rồi,” và nàng định nói tiếp nhưng kềm lại được: Vậy Vân và chú có thể yêu nhau và lấy nhau.
“Sáng nay bướm bay nhiều quá… ta đi bắt bướm đi!” Tuấn Đạt đề nghị.
Hôm ấy không hiểu sao bướm bay đến trong vườn rất nhiều. Tuấn Đạt đứng lên vào nhà lấy một cặp vợt bắt bướm cho hai người. Họ đuổi theo những con bướm bay chập chờn trước mặt. Thỉnh thoảng Tuấn Đạt dừng lại nhìn Giáng Vân đuổi theo bướm trong gió sớm làm cái áo lụa hồng và mái tóc nàng tung bay như đôi cánh én, lòng chàng tự hỏi, “Tại sao con bé lại bịa ra câu chuyện này, rõ ràng nó muốn nhắc lại chuyện tình của mình với Thể Vân và Tri Tân. Nó còn tưởng tượng ra đoạn kết…”
“Vân bắt được rồi,” tiếng Giáng Vân kêu to.
“Giỏi đấy…” chàng đáp lại, rồi chợt nghĩ ra một điều chàng vội cầm vợt quay vào nhà và tự nhủ, “Mình nghi con bé đã lén đọc nhật ký cuả mình ngày trước vẫn để trên kệ sách…” Nhưng khi còn cách cửa sau vài bước, chàng đã nghe tiếng kêu thất thanh của Giáng Vân, “Chú ơi, rắn hổ mang…” Chàng vứt vợt xuống đất, chạy lại chỗ nàng, thấy nàng hốt hỏang và tái mét, đang ngồi thu người dưới chậu cây mai chiếu thủy, tay cầm vợt chỉ lên một cành cây to. Chàng nhìn theo thấy một vệt dài bóng lóang vặn mình chuyển động trên cây, chàng nói:
“Chú thấy rồi, Vân có sao không?”
“Vân sợ lắm, chú ôm Vân vào lòng cho Vân bớt sợ đi…” nàng nói một cách vô thức như một cô bé còn ngây thơ nhưng Tuấn Đạt vẫn làm theo, chàng ngồi trên lá khô ôm chặt nàng vào lòng, cằm tựa và vai nàng không nói, nửa phút trôi qua, nàng hỏi nhỏ:
“Sao chú không hỏi Vân từ vựng tiếng Pháp…?”
“Để làm gì?”
“Để giống với một buổi trưa dông tố chợt đến, lúc Vân mười tuổi, lúc đó chú ôm chặt Vân trong phòng khách vì Vân sợ tiếng mưa to và sấm sét. Chú nhớ không?”
“Chú nhớ rồi, hôm đó chú cho cháu ăn kẹo và hỏi cháu từ vựng tiếng Pháp…” Tuấn Đạt dịu dàng đáp lại và những cảm xúc của buổi trưa hôm đó lại tràn ngập lòng chàng, trong lúc nàng ngã đầu vào ngực chàng để hương tóc bay vào mũi chàng và nói tiếp:
“Những năm tháng trôi qua từ khi Vân khôn lớn khiến Vân nhận ra rằng Vân không thể sống thiếu vòng tay của chú giữa cuộc đời có quá nhiều nguy hiểm. Giờ đây trái tim Vân nói rằng Vân cần có chú và Vân yêu chú, có lẽ từ buổi trưa hôm ấy.”
“Vân sẽ không hối tiếc chứ…” “Không, nhưng chú phải thật lòng trả lời Vân, ‘Chú có yêu Vân không?’ “Chú yêu Vân, tình yêu thứ hai và cuối cùng của đời chú” Chàng nói như đã từng nghĩ trong đầu cả tuần nay.
Lúc đó Giáng Vân ngã đầu kê trên một đầu gối của Tuấn Đạt, khuôn mặt kiều diễm của nàng ngửa lên, rồi một bóng mát đổ xuống khuôn mặt ấy: Tuấn Đạt cúi đầu đặt vào đôi môi mọng ấy một cái hôn nồng nàn dài hơn một phút khiến toàn thân nàng rung lên nhè nhẹ.
Khi chàng buông nàng ra, nhớ lại con rắn mà nàng gọi là hổ mang, nàng hỏi:
“Còn con rắn thì sao anh?”
“Không sao cả,” chàng cười nói, “Đó là con trăn lào mà anh nuôi để bắt chuột ngoài vườn từ năm ngoái cùng lúc với một con mèo bắt chuột trong nhà nhưng con mèo đã bỏ đi vì chủ nhà chỉ ăn cơm nhà mỗi tuần có một lần nên nhiều hôm nó bị bỏ đói.”
“Sau này em sẽ tìm một con mèo khác cho anh và cho cả hai con ăn đầy đủ.” nàng cười nói trong lúc hai người cùng vào nhà bếp chuẩn bị bữa trưa.
Ngày hôm đó thỉnh thoảng họ lại ngừng công việc để hôn nhau, buổi trưa nàng vẫn ngủ ở võng một mình. Và một cái hôn nóng bỏng lúc nàng ra về. Tuấn Đạt giữ gìn phẩm hạnh cho nàng vẫn như cho một cháu gái khi nào còn có thể được.
Một buổi tối trời mưa lất phất, Tuấn Đạt đang ngồi đọc sách trên cái bàn dài dưới ngọn đèn mà Giáng Vân đã ướp khô mấy con bướm, chợt nghe có tiếng động ngoài cửa cổng, nửa phút sau Giáng Vân hiện ra trước mặt chàng. Chàng kinh ngạc hỏi:
“Sao Vân đến đây tối thế. Có việc gì không?”
“Em rơi vào một tình cảnh đau lòng khủng khiếp đến nỗi em chỉ muốn bỏ nhà đi sau cùng em phải đến đây với anh.”
“Em và mẹ cãi nhau ?” Tuấn Đạt đoán mò.
“Không, nhưng anh có muốn nghe và tin lời em nói không?”
“Dĩ nhiên rồi, anh biết em từ nhỏ đã không nói dối ai bao giờ đâu.” Tuấn Đạt trầm ngâm nói.
“Tối nay mẹ em tiếp bạn tình trong phòng riêng…”
“Bạn tình?”
“Phải, một nhà sư, đúng hơn một kẻ đội lốt nhà sư…”
Tuấn Đạt xuýt kêu lên hoan hỉ khi nghĩ đến nỗi đau khổ của ông Tri Tân nếu ông ta biết được tin này, nhưng Tuấn Đạt đã kềm chế được và thay vào đó bằng một tiếng thở dài.
Rồi Giáng Vân cũng ngồi xuống cái băng dài kể lại câu chuyện thông dâm của mẹ với Quảng Trí. Khi nàng bắt đầu mô tả chi tiết việc nàng khám phá, Tuấn Đạt ôm ngang người nàng hôn tóc nàng và nói vào tai nàng:
“Thôi em đừng kể nữa, anh biết vậy là đủ rồi… Tối nay em cứ ngủ lại đây mai mốt hãy về.”
“Em muốn ở lại đây với anh luôn…”
“Còn việc học thì sao…”
“Thì em vẫn đi học và lo cơm nước cho anh”
“Bố mẹ em sẽ không đồng ý…
” “Anh và em sẽ làm lễ kết hôn dân sự sau đó khi nào thuận tiện báo cho bố mẹ em biết sau.”
“Thôi việc đó hãy tính sau vậy. Bây giờ anh phải đi nấu bình trà sẵn có mấy cái bánh gatô mà chị Cúc trong cơ quan cho anh. Lát nữa anh và em vừa ăn bánh vừa nói chuyện.”
Khi chàng đem bình nước vào phòng khách, chàng thấy nàng đã ngồi ở đó trong bộ rốp ngủ bằng lụa mỏng màu hồng nhạt như một lớp sương qua đó có thể thấy thấp thoáng đồ lót trên người cũng màu hồng. Những đường nét thẩm mỹ trên thân thể nàng được dịp phô bày. Tuấn Đạt đặt bình trà lên bàn, ngồi xuống đối diện và nói luôn để trấn áp cơn cảm xúc:
“Có lẽ anh và em phải nhờ đến chị Cúc việc này. Chị Cúc làm cùng cơ quan phụ trách hành chính là người trước đây có giới thiệu em gái chị với anh nhưng không thành. Dù vậy chị ấy vẫn nói với anh hôm đám cưới của em gái chị với một người khác, “Sau này anh Tuấn Đạt có gặp được cô nào và thành tựu, tôi xin tình nguyện đứng ra lo hôn sự cho hai người. Em thấy thế nào?” Chàng hỏi Giáng Vân.
“Tùy anh quyết định thôi nhưng phải sớm vì em chịu không nổi không khí ở nhà em…”
“Vậy sáng mai lúc em ở trường Dược về ghé đến sở làm của anh để anh giới thiệu em với đồng nghiệp. Sau đó anh sẽ mời chị Cúc đi ăn trưa bên ngoài rồi trình bày tình hình để chị Cúc tiến hành mọi thủ tục kết hôn. Có khả năng chị ấy nhờ một ông cha Tây chúc phúc cho anh và em ở nhà thờ nữa.”
“Thế thì tốt quá…”
“Ngày mai anh cũng sẽ đưa em ít tiền để em mua sắm nữ trang và áo cưới…”
“Không cần đâu anh em có sẵn tiền.”
“Không, ít nhiều gì em cũng phải lấy…”
Sau khi đã nhất trí việc đám cưới, hai người chơi trò nói nhảm bắt chước câu chuyện cổ tích Cô gái quàng khăn đỏ. Mỗi người phải tìm một câu hỏi và một câu trả lời thú vị nhất.
“Sao hôm nay em đẹp thế?”
“Vì em muốn làm một loài hoa”
“Sao mắt em ướt thế?”
“Vì em thương chàng trai già chưa vợ.” vân vân… và ngược lại:
“Sao anh mỉm cười bí hiểm thế?”
“Vì anh đã gặp lại em sau bao năm không gặp.”
“Sao anh có vẻ lúng túng thế ở trước mặt em?”
“Vì anh đạt kết quả hôm nay đẹp hơn anh tưởng.” vân vân …
Câu này Giáng Vân nghe lộn thành, “Vì anh được món quà hôm nay em đẹp hơn anh tưởng”. Đố ai có thể ngờ rằng câu chuyện Cô gái quàng khăn đỏ sẽ ‘vận’ vào hai người: một người sẽ thành chó sói giả làm người bà và một người là cô cháu gái ngây thơ ấy?
Cứ thế hai người vừa uống trà vừa bàn tính rồi vui đùa bên nhau đến hơn mười giờ khuya. Sau đó Tuấn Đạt bảo nàng vào giường ngủ còn chàng sẽ ngủ trên võng. Giáng Vân vào buồng ngủ trước. Tuấn Đạt uống xong tách trà cũng đứng dậy vào phòng trong nhưng chàng tìm mãi mà không thấy cây găng võng. Giáng Vân xuất hiện ở cửa phòng gần cái đèn và ánh sáng hắt lên người nàng soi rõ những đường nét lồ lộ, nàng nói:
“Anh vào với em đi, giường rộng mà”
“Không, anh còn ngây thơ lắm, anh chả biết gì, ở quê anh vẫn ở truồng đi tắm mưa đấy.” Tuấn Đạt nói giọng giễu cợt.
Nàng đến bên chàng nắm tay chàng kéo vào buồng và nói:
“Vào ôm em cho em đỡ sợ. Anh làm được mà.”
“Sợ gì?”
“Sợ bóng tối.” “Một việc nghĩa hiệp đây,” nói xong chàng ngoan ngoản đi theo nàng, ngắm cái eo nhỏ và cái mông lắc nhẹ của nàng dưới làn vải mỏng.
Chàng ôm nàng như mẹ ôm con và mong nàng mau ngủ, khi thì bên phải khi thì bên trái, nhưng một giờ trôi qua mà hai người vẫn còn thao thức. Sau cùng chàng đã ôm nàng từ trên và đổ bóng xuống nàng, lúc đó cả hai không còn mảnh vải trên người. Tuấn Đạt kéo đôi môi chàng từ mặt xuống cổ xuống ngực, rồi từ ngực xuống vùng trũng thoai thoải của rốn nàng nơi chàng dừng lại hôn hít một lúc lâu vì nghĩ đến sợi dây rốn nối Giáng Vân vào Thể Vân khi còn trong bụng mẹ. Kế đó, với tất cả sự quyết đoán của một người đang lội ngược dòng để thắng đối phương, chàng chiếm hữu nàng, mắt hoa lên thấy hình ảnh Thể Vân luôn chập chờn giữa họ ngây ra vì lạc thú… Hai người đan nhau trong vòng tay ráo riết, và những tiếng rên khe khẻ. Sau cùng đọng lại trong một tiếng kêu thảng thốt lúc họ hòa tan vào nhau trong hạnh phúc.
Một tháng sau, đám cưới được cử hành đơn giản ở căn-tin của sở Lâm Nghiệp trước một số bạn bè giới hạn. Chị Cúc làm người chủ sự; một người bạn học cùng trường hỏi nàng trong lễ cưới, “Sao mẹ Vân không đến?” “Vì mẹ không muốn mình lấy chồng già,” Cô bạn ấy không hỏi tiếp, “Sao cha Vân không đến?” vì cô bất chợt có một trực giác lạ lùng, “Bạn mình vừa lấy được chồng vừa kiếm được cha”.

@@
Tuần lễ nghỉ phép sau đám cưới, Tuấn Đạt đưa Giáng Vân ra Hải Phòng thăm ông Tri Tân, bố nàng, nàng mang theo những ảnh chụp hôn lễ của họ.
Ông Tri Tân ngạc nhiên khi thấy hai người ra thăm ông cùng lúc. Sau khi bố trí hai người ở hai phòng mà trước đây Phương Tâm và Mạnh Thông đã ở. Họ lên ô tô ra ngòai ăn cơm tiệm. Ông hỏi con gái:
“Con gái của bố vẫn đi học đều đấy chứ ?”
“Thưa vâng.”
“Sao hôm nay lại nghỉ học ra đây?”
“Vì chú Đạt nói lâu quá chú không gặp bố nên con phải dẫn đường.”
Tri Tân quay lại nhìn Tuấn Đạt nhẹ nhàng trách móc:
“Ra là do chú, chú không thấy bất tiện khi đi với cháu gái lớn như thế ư?”
“Thế anh không thấy bất tiện khi để Thể Vân sống cô độc bao nhiêu năm nay sao?”
“Thôi, chuyện đó tối nay tôi sẽ nói với chú, bây giờ tôi muốn ăn ngon.” Tri Tân gạt ngang vì không muốn con gái ông đau lòng về việc bố mẹ bất hoà.
Rồi họ vừa dùng cơm vừa nói qua chuyện khác – thời cuộc, chính trị, thương mại. Thỉnh thoảng ông Tri Tân hỏi con gái ông về việc học và ngạc nhiên trước vẻ đẹp trưởng thành của con ông. Sau bữa ăn ông ra cảng vụ, tài xế đưa Tuấn Đạt và Giáng Vân về nhà rồi lại cho xe quay ra cảng chờ đưa ông chủ đi những nơi cần đến.
Tối hôm ấy sau bữa ăn , Giáng Vân phụ dọn dẹp với chị bếp rồi lên lầu ngủ sớm. Lúc đầu nàng vào trong phòng mà bác quản gia đã sắp xếp cho nàng nhưng chỉ nửa giờ sau nàng ôm gối qua phòng dành cho Tuấn Đạt và vẫn để nguyên đèn ngủ trong phòng nàng. Ngày mai nàng và Tuấn Đạt sẽ đi Đồ Sơn hưởng tuần trăng mật. Cùng lúc đó Tri Tân và Tuấn Đạt vào phòng khách nói chuyện. Sau khi hớp một ngụm trà bắc nóng, Tri Tân nói với Tuấn Đạt:
“Thế chú chưa biết tôi và Thể Vân đã ly thân sao?”
“Thật ra cô ấy muốn anh ly dị hẳn để còn thời gian tìm hạnh phúc mới” Tuấn Đạt nói.
“Không bao giờ tôi chấp nhận việc ly dị. Có hai lý do: Tôi không muốn mất một nửa cơ ngơi để cô ấy nuôi trai. Với nhan sắc còn đậm đà như thế, bỏ ra cô ấy cũng quơ được mấy người. Nhưng lý do thứ hai cũng là lý do chính: Tôi đã chiến thắng khi giành được cô ấy trong tay chú, tôi sẽ giữ lấy chiến lợi phẩm ấy như một tượng đài chiến thắng của tôi.”
“Anh đang để tượng đài chiến thắng của anh bị rêu phong, dơ bẩn. Nếu chị ấy lang chạ với người khác thì sao; liệu anh còn chiến thắng không?”
“Ha ha, thằng đó chia phần chiến thắng của tôi và nó mặc nhiên thừa nhận chiến lợi phẩm mà tôi còn sở hữu trên danh nghĩa là có giá trị.”
“Tôi thấy anh giống chúa Trịnh và chúa Nguyễn ở chỗ đi tìm chiến thắng và sự quy phục của kẻ thù và của mọi người mà không có lòng thương dân. Thậm chí còn coi trong chiến thắng có đủ mọi giải pháp hậu chiến có lợi nhất cho nhân dân. Nhưng cuộc đời không đơn giản như thế. Vì vậy khi chúa Nguyễn thắng Tây Sơn và chúa Trịnh rồi, nhà Nguyễn đứng trước một đất nước đã kiệt quệ, đã tầy huầy, tơi tả trước vận hội mới, xin lỗi anh và nhất là xin lỗi cả tiền nhân, đất nước như một trẻ vị thành niên bị cưỡng dâm nửa sống nửa chết. Đó là chưa nói những vấn đề phát sinh do chiến tranh để lại một dấu ấn đen tối trong lòng dân chúng ... Cái kiểu của anh giống thế và tôi dám nói anh chưa từng yêu Thể Vân...”
“Yêu chứ, tôi yêu nàng theo cái kiểu của tôi,” Tri Tân lại cười to ngắt lời, “Trước hết là chinh phục bằng những lời ngon ngọt dụ dỗ (chính trị gọi đó là tuyên truyền, nếu chú muốn so sánh với chính trị), kế đó là chiếm hữu bằng tình dục, xác thịt, xác thịt và xác thịt. Tôi đã đem đến cho nàng, khoái lạc vật chất, thuần túy vật chất, khoái lạc trong gió mưa sấm sét, khi mọi vật xung quanh tưởng chừng tan nát, khoái lạc gắn liền với tàn phá và tôi ngây ngất với sự chiến thắng đó. Tôi đáp ứng tối đa bản năng cơ bản của nàng, một loài sinh vật có vú đi bằng hai chân và một lò bát quái hừng hực ở dưới rốn. Và nàng đã trở thành một sinh vật trong loài hữu nhũ biết đòi hỏi và đáp ứng.”
“Anh đã giết chết trong nàng tình yêu mà trước đó tôi đã chắt chiu xây dựng cho nàng suốt những năm cuối ở trung học.”
“Và cái đau nhất mà chú gây ra cho tôi là tình yêu ấy không chết.” Ông Tri Tân ngắt lời túm lấy cổ áo của Tuấn Đạt gằn từng tiếng. “Cô ấy hưởng thụ nhưng vẫn kinh tởm tôi khi cô ấy hoài niệm về tình yêu thơ mộng đó, khi nhớ nhung và khát vọng về nó, nhưng cho đến nay cô ấy chưa từng tìm lại được. Vì một lẽ đơn giản cô ấy chỉ còn có một phương tiện xác thịt nặng nề mà tôi đã truyền thụ và tập quen cho cô ấy và người nào thông dâm với Thể Vân lúc này cũng chỉ nhắm đến tình dục mà thôi.”
“Khốn nạn cho anh đã làm hại đời Thể Vân...” Tuấn Đạt nói to, đứng dậy định đấm vào mặt người anh kết nghĩa nhưng chàng đã kềm chế được kịp thời.
“Trái lại sự kinh tởm của cô ấy cũng làm hỏng đời tôi. Tôi đã hành hạ cô ấy khi hành dâm chỉ để vượt qua sự kinh tởm ấy và nuôi dưỡng dâm lực trong tôi để thỏa mãn cô ấy. Cô ấy đã kinh tởm tôi như ác thú còn tôi, tôi khinh bỉ lại cô ấy, tôi (và cả cô ấy nữa) coi tiếng kêu rên và sự quằn quại của cô ấy trong khoái lạc như tiếng kêu đau và giãy giụa của một con thú nhà bị thú dữ hoang dại làm trọng thương. Có lần chính trong lúc đó tôi nhìn thấy một giọt nước mắt trào ra từ đôi mắt nhắm lại của cô ấy. Và tôi chắc còn có những giọt nước mắt chảy trong đêm tối sau những lúc hành lạc mà tôi không thấy. Và khốn nạn cho chú là đàng sau những giọt nước mắt ấy là hình bóng xa vời và trinh nguyên của chú. Từ đó tôi chạy trốn sự kinh tởm ấy của Thể Vân trong xác thịt của những người phụ nữ khác và tôi làm được vì tôi có tiền, tôi mạnh khoẻ và cường tráng …”
“Tội nghiệp cho Thể Vân …” Tuấn Đạt cúi đầu than thở.
“Thế đấy, tôi không chịu nổi sự kinh tởm của cô ta đối với tôi cùng kỷ niệm của tình yêu thơ mộng mà cô ta luôn gìn giữ” Tri Tân gào to, đứng lên đi một vòng trong phòng “Và khi tôi đã cưỡng dâm một con điên lõa lồ tắm mưa giữa phố Hải Phòng này, tôi sung sướng cả nửa tháng dài vì tôi biết nó không còn lý trí và kỷ niệm nào để kinh tởm tôi. Con điên đó chỉ có xác thịt và bản năng đơn thuần của một con thú cái. Lần đó tôi chiến thắng tuyệt đối.”
“Anh im đi, tôi không muốn nghe cái miệng lang sói còn dính máu tanh của anh nói nữa. Tôi hỏi anh điều này, anh không sợ Giáng Vân con gái duy nhất của anh rơi vào vết xe đổ của anh sao?” Tuấn Đạt gằn giọng nói.
“Không không, chú đừng nói như thế, tôi van chú...” Tri Tân hoảng hốt dừng bước giữa phòng rồi quỵ xuống trên hai đầu gối, hai tay đưa thẳng về phía Tuấn Đạt kêu lên thảm thiết và vặn người với nỗi đau đớn cùng cực, khuôn mặt trở nên tái xám thất thần,
“Chú giúp tôi với, chú hứa đi, chú hãy tách con gái tôi khỏi mẹ nó và tôi. Chú hãy đưa nó đi xa và tìm cho nó một người chân thật đơn sơ làm chồng. Chú hứa đi.”
“Tôi xin hứa nhưng tôi có một điều kiện: anh phải trở lại cùng Thể Vân ...”
“Để xem... tôi sẽ cố chú ạ, ” Tri Tân vẫn quỳ nhưng hai tay đã chống xuống sàn nhà như một người sắp phủ phục, một nụ cười méo mó hằn lên khuôn mặt, ông nói tiếp, “Tôi xin chú thêm một thời gian. Bây giờ chú về phòng chú ngủ đi và hãy tha thứ cho tôi đã cướp tình của chú, một người em kết nghĩa.”
“Anh đừng bận tâm đến việc xa xưa ấy nữa.”
Nói xong Tuấn Đạt đi ra nhưng tới cửa phòng, Tri Tân gọi lại và nói:
“Ngày mai chú đưa Giáng Vân đi Đồ Sơn chơi, chú nhớ đừng cho thằng thanh niên nào giống tôi đến gần con bé, những thằng tiêu xài vung vít, không có trái tim và những giá trị tinh thần, những thằng mồm loa mép dãi sẽ hứa hẹn với con bé một thứ hạnh phúc trong thiên đường ảo, mà thật ra chỉ là một ít tiện nghi vật chất và sự cưỡng dâm... Có chú đi với nó đến nơi phức tạp ấy, tôi thấy yên tâm.”
“Anh yên chí đi, Giáng Vân không những thông minh mà còn khôn ngoan nữa. Có tôi đôi khi lại rối việc… nhưng tôi sẽ giúp anh. Tôi thấy anh còn có chút lương tâm khi nghĩ đến con bé.”
Tuấn Đạt nhấn mạnh đến hai tiếng ‘rối việc’ nhưng dường như Tri Tân không nhận thấy. Đây chỉ là chuyện nhỏ vì một chi tiết quan trọng hơn rất nhiều mà ông Tri Tân không bao giờ tự hỏi: “Tại sao Tuấn Đạt nhẫn nhục với ông như thế bao nhiêu năm nay trừ khi chú ấy đang dùng khổ nhục kế.” Ông không hoài nghi có lẽ vì ông đã quá say men chiến thắng mà không thấy cái thâm ý sâu xa của kẻ bị đoạt tình và nếu có lúc hoài nghi thì ông coi đó là chữ Nhẫn ‘tốt lành’ trong Phật giáo.
Tuấn Đạt về phòng thấy Giáng Vân đã ngủ yên trên giường của chàng, chàng đứng im ngắm nàng một lúc lâu trong cái rốp ngủ màu hồng. Cô bé đã không chịu ngủ một mình trong phòng dành cho nàng và đã qua phòng chàng. Chàng lấy cái chăn trải xuống đất tự nhủ, “hôm nay cô bé mệt vì đi đường,” trong lúc miệng nở một nụ cười bí hiểm. Nghĩ đến câu chuyện của Tri Tân, chàng lại mỉm cười: kể từ ngày mình cưới được Giáng Vân, ngọn cờ chiến thắng đã ở trong tay mình. Một lát sau chàng chợp mắt.
Khi Tuấn Đạt ra khỏi phòng, ông Tri Tân gục đầu trên bàn giấy. Ông khóc và nhớ lại khi ông ly thân với Thể Vân là lúc Giáng Vân ở tuổi dậy thì là tuổi hay xảy ra những vấn đề tâm lý. Không biết sự đổ vỡ ấy có làm cho con bé rơi vào khủng hoảng hay không. Ong vẫn khóc khi một mùi hương quen thuộc làm ông ngước đầu lên. Liên Hà, con gái nhân viên hải quan bằng tuổi Giáng Vân đã vào phòng xức lọai nước hoa mà ông đã mua cho cô bé. Ông uể oải nói:
“Hôm nay anh mệt quá em muốn ở lại ngủ hay về tùy em.” “Em chỉ cần anh ôm em và ru cho em ngủ như ngày xưa mẹ em còn sống vẫn hay làm.” Nàng ỏng ẹo nói. “Việc đó anh làm được” Tri Tân nói lòng tự nhủ, “Từ hôm nay và với con bé to xác này mình sẽ yêu nó chân tình theo kiểu của Tuấn Đạt yêu Thể Vân ngày xưa. Cũng may lương tâm mình chưa chết.”
Khi gần sáng lúc Giáng Vân tuột xuống giường nằm kế bên Tuấn Đạt, sau đó khi hai người đan vào nhau, níu chặt nhau dâng hiến và tận hưởng nhau trên sàn nhà, và khuôn mặt chập chờn của Thể Vân lại nhập nhoè với khuôn mặt của Giáng Vân. Liên Hà ở phòng bên kia cũng đã làm cho Tri Tân thấy hứng thú, ông dịu dàng vuốt ve thân thể bồ tượng mỡ màng của nàng, nhất là khối mỡ mềm ở vùng bụng. Cái đùi của Liên Hà phải to gấp rưỡi đùi ông Ông từ tốn phi ngựa trên người nàng như người mới lần đầu tập cỡi ngựa, đầu ông gục giữa đôi vú trắng như con thơ gục vào vú mẹ mềm mại và to quá khổ của nàng, rồi không hiểu sao một giọt nước mắt trào ra từ mắt ông rơi xuống vú trắng của Liên Hà, nhưng giữa cơn triều cường của cảm xúc, Liên Hà không hay biết. Trong một giây nhanh như chớp ông nghĩ trong lòng, “Khi nào mình làm hòa với Thể Vân, mình sẽ tìm cho Hà một tấm chồng tốt bụng và thay mặt cha nó, một ông nhân viên hải quan hom hem và goá vợ, cho nó ít của hồi môn. Mình phải biết mình sắp vào tuổi lão, phải dẹp những cái trống bỏi đi thôi …” Năm ngày ở Đồ Sơn là một kỷ niệm khó quên đối với Giáng Vân, Tuấn Đạt đã đem đến cho nàng những cảm xúc tuyệt vời, nàng khám phá thân xác và nữ tính của mình, một nữ tính sẵn sàng để đón nhận , cưu mang, đem lại bình an và bảo tồn sự sống. Tuy nhiên trong một khoảnh khắc phù du, khi thân xác Tuấn Đạt đã no đầy khoái cảm, đôi mắt chàng trở nên đờ đẫn, Giáng Vân tưởng chừng nhìn thấy trong đáy mắt chàng hình ảnh mơ hồ như sương khói của Thể Vân, mẹ nàng. Từ lúc đó nàng quyết định chọn cho mình một cái tên mới và mong sớm được sinh con cho Tuấn Đạt để xoá hẳn (nàng tưởng có thể làm được!) phần quá khứ của chồng nàng trong đó có Thể Vân.
Chiều ngày thứ sáu từ Đồ Sơn họ về lại Hải Phòng, trưa ngày thứ bảy họ về Hà Nội. Ông Tri Tân cho xe ô tô đưa hai người ra bến xe. Lúc bác tài sắp quay xe ra cảng, Giáng Vân đưa cho bác tài một bao thư dán kín nhờ đưa lại cho bố nàng. Trong bao thư có năm tấm hình chụp nàng và Tuấn Đạt giữa ngày hôn lễ và một bức thư dài xin bố nàng hòa giải với mẹ nàng. Và một câu nàng nghĩ bố mình sẽ nhớ mãi, “Nếu bố đã chưa là ông bố tốt của con thì con xin bố hãy vì thương con mà trở thành ông ngọai tốt của con con sau này và không lâu đâu bố ạ vì lúc này con rất muốn có con với Tuấn Đạt…

@@
Năm tháng sau ngày rời khỏi Nam Định chạy trốn một tình yêu tuyệt vọng, Minh Nhật đã xong khoá huấn luyện ở quân trường. Chàng đã trở thành một trung sĩ làm thông ngôn cho lính Pháp, ra khỏi quân trường với năm ngày phép trước khi đến trình diện ở đơn vị chiến đấu. Bấy giờ là mùa hè năm 1950.
Trong thời gian ở quân trường, chàng thường viết thư về gia đình và Hiền Giang mà chàng đã đính hôn trước khi vào quân trường. Hai gia đình đã đồng ý tổ chức hôn lễ cho ‘đôi trẻ’ sau một năm. Mọi người ở quê nhà đều bình an, cho dù những người lớn tuổi trong giáo xứ có thể lo lắng trước cuộc chiến tranh không thể tránh giữa CS và quân đội Pháp đã quay trở lại. Vì thế Minh Nhật muốn dùng năm ngày phép để về Hà Nội thăm lại trường xưa và một vài bạn học vì những lý do này khác đã không được cho tham gia cuộc kháng chiến mà CS đã giành lấy quyền lãnh đạo. Biết đâu đây là lần thăm hỏi bạn bè lần cuối. Cuộc chiến này ra sao và số phận chàng ra sao trước hỏa lực của đối phương. Với Minh Nhật đối phương không phải là một kẻ thù.
Qua cầu Long Biên, chiếc xe khách chạy chậm dần để vào bến đỗ. Hà Nội đang mở ra trước mắt chàng cùng với những kỷ niệm hồi học trung học ở trường Thăng Long. Vừa xách hành lý xuống xe, định tìm một quán bán cà phê uống một ly đen, hút một điếu thuốc, trước khi thuê xe đến nhà thờ Cửa Bắc, bất chợt chàng nghe có tiếng người lạ gọi mình, “Cậu Nhật! Cậu Nhật!” Chàng quay lại thấy một phụ nữ khoảng ba lăm, ba sáu tuổi, da ngăm đen, y phục gọn gàng, khuôn mặt khắc khổ. Chàng chưa kịp nhớ lại người này là ai, người đàn bà nói tiếp:
“Cậu không nhận ra tôi sao? Tôi là chị Tám giúp việc cho ông bà Lại Cửu đây…”
“À, tôi nhớ ra rồi. Chị đi đâu mà đến đây?”
“Tôi về Nam Định thăm ông bà chủ rồi lên lại Hà Nội. Vào quán nước tôi sẽ kể hết cậu nghe.”
Hai người vào một quán nước gần đấy. Minh Nhật gọi cà phê còn chị Tám kêu nước trà xanh và hai cái bánh nếp. Chị Tám bắt đầu kể:
“Sau khi cậu bỏ thành Nam đi rồi, tôi mới biết chuyện cậu với cô Lãm Trang vì có những lúc cô ấy đã gục đầu trên vai tôi khóc nức nở và kể tôi nghe mối tình của cậu và cô ấy. Một tháng sau, đám cưới cô ấy được tổ chức rất lớn. Ngay sau đó đôi tân hôn vào Sầm Sơn hưởng tuần trăng mật trong một ngôi biệt thự của Pháp. Rồi khi về Nam Định, cậu Quý Dương ra lại Hải Phòng, cô Lãm Trang lên Hà Nội xúc tiến việc lập một xưởng may. Hơn hai tháng sau xưởng may đi vào hoạt động, tôi cũng theo cô chủ về Hà Nội, sau đó chồng tôi cũng xin chuyển về làm công nhân cho nhà máy điện ở đây. Chúng tôi thuê nhà ở Kim Liên, khá rộng với lại chúng tôi không có con cái gì. Tí nữa cậu ghé nhà tôi chơi cho biết. Mười ngày trước, cậu Quý Dương đã về Hà Nội, đem theo ít quà hải sản cho bố mẹ ruột và bố mẹ vợ, cô Lãm Trang sai tôi đem về Nam Định ngay cho hai gia đình. Tôi không ngờ gặp cậu ở bến xe này. Nãy giờ quên hỏi cậu lúc này làm gì mà có vẻ phong trần lắm?”
“Khi rời khỏi thành Nam, tôi về quê chị ạ, rồi dạy học vớ vẩn ở quê (chàng nói thế vì đang mặc đồ dân sự như dân thường). Hôm nay ra thăm bạn học ở Hà Nội mới tình cờ gặp chị. Thế Duy Lực lúc này ra sao, chị biết không?”
“Dĩ nhiên là tôi biết. Cậu ấy không đi dự đám cưới cháu gái mà chỉ gởi quà. Tháng trước cậu ấy có dẫn cô vợ đầm ghé xưởng may, trước khi cô cậu về Pháp sinh sống. Hình như cậu Lực cũng biết câu chuyện của cậu với cô Lãm Trang. Cậu ấy không vui.” Ngừng lại một lúc chị Tám nói tiếp, “Vậy tí nữa cậu về đâu?”
“Tôi định đến khu nhà thờ Cửa Bắc, ở đấy tôi có một người bạn học cũ cũng là bạn học của Duy Lực …” Minh Nhật chậm rãi nói.
“Thế này nhé,” chị Tám ngắt lời “sao cậu không đến ở nhà tôi cho gần trung tâm thành phố. Ông xã tôi ba tối trong tuần phải trực máy phát điện không về. Những ngày đó tôi cũng ở lại xưởng may vì tôi sợ ở một mình lắm. Gần nhà tôi có quán cơm, ngày nào cậu còn ở lại Hà Nội, cậu nên ra đó đặt cơm và ăn món cậu thích.”
“Thế ban ngày ông xả chị có về không?” Minh Nhật băn khoăn hỏi.
“Thỉnh thoảng có về nhưng ông xả tôi có chìa khoá riêng. Một mình, ông ấy có thể nghỉ ngơi trên chiếc ghế bố hoặc trải chiếu nằm trên sàn nhà. Nếu cậu ở lại tôi sẽ đưa cậu giữ chìa khoá, tôi sẽ làm thêm một chìa khoá khác cho ông ấy để cậu được tự do đi thăm các bạn cậu …”
“Thế cũng được, vậy ta đến nhà chị thôi.”
Họ cùng về và trên đường ghé vào nhà máy điện để chị Tám giới thiệu chàng với chồng chị, một người đàn ông khoảng ngoài bốn mươi tuổi khoẻ mạnh, hay cười cả những lúc không có lý do vui vẻ gì đáng để cười. Chồng chị báo ba tối này sẽ không về nhà vì phải làm thay cho một người bạn nghỉ phép, sau đó phải trực thêm mấy tối của m´nh. Có một lúc hai vợ chồng nói chuyện riêng, đúng hơn chị Tám nói còn anh chồng chỉ gật gù ưng thuận. Về đến nhà chị Tám vội vàng dọn dẹp căn phòng cho ngăn nắp, đưa cho Minh Nhật một chìa khoá, rồi nhanh nhảu đến xưởng may.
Chàng dặn chị đừng nói với Lãm Trang việc chàng đang ở Hà Nội. Khi chị Tám đi rồi, chàng quan sát kỹ căn phòng gồm một phòng khách chung với chỗ ngủ nơi đặt một cái giường đôi đã tróc véc-ni bên cạnh một cửa sổ cao. Trên giường có nệm dày đã phai màu, hai cái gối, áo gối bằng vải sọc và một cái chăn dầy. Một bức màn màu vàng đất che giường ngăn nơi tiếp khách và nơi ngủ nghỉ. Một cái bếp nhỏ nơi góc trái phía trong kế với buồng tắm, phía ngoài là một cái bàn gỗ mới đánh véc-ni để tiếp khách với bốn ghế dựa bằng gỗ còn mới. Một cái tủ gỗ cao sơn nâu ngăn không cho khách từ bàn thấy nơi làm bếp.
Đặt hành trang vào một góc xong, chàng uống một ly trà trong bình tích còn nóng hút một điếu thuốc Mélia rồi ra ngoài đi dạo một vòng quanh mấy con phố gần đấy trước khi quay về tiệm ăn mà chị Tám giới thiệu để ăn trưa. An xong chàng về nhà nằm đọc sách trên giường, chờ chiều mát sẽ đến rủ một bạn học ở quận Hoàn Kiếm đến khu Khâm Thiên đánh chén.
Chiều hôm ấy, Minh Nhật không tìm được người bạn cũ vì anh bạn này làm trong ngành hoả xa đã vào Nam làm trưởng ga ở Mương Mán, Phan Thiết và đã lập gia đình với một cô gái tại thị xã. Chàng định quay về nhưng khi đi ngang qua vũ trường Lido, chàng tò mò bước vào, kêu một ly Brandy séc ngồi nhìn những cặp trên sàn nhảy. Chàng chú ý đến một cô gái cao thon thả, nhảy rất đẹp với một ông Tây. Chàng hỏi thăm anh bồi quầy rượu, anh ta cho biết cô gái nhảy ấy quê ở Thanh Hóa lên Hà Nội, tên cô ta là Ngọc Xuân. Cô làm con sen cho một gia đình quyền thế bị ông chủ cưỡng dâm và vợ ông ta đánh ghen sau đó mới đi làm vũ nữ.
Trong lúc ngồi uống, chàng nhớ đến Duy Lực. Chính Duy Lực đã dạy chàng khiêu vũ và đã kéo chàng đến sàn nhảy mấy lần trong những ngày nghỉ học. Sau đó chàng rời bỏ vũ trường ra phố, đi một mình trong đêm để cảm nghiệm cái đẹp dịu dàng của đêm Hà Nội hôm ấy. Về đến nhà chị Tám, chàng ngạc nhiên thấy trong nhà sáng đèn. Chàng gõ cửa, rồi có tiếng phụ nữ hỏi và ra mở chốt. Khi cánh cửa mở ra, trước mắt chàng là Lãm Trang trong bộ đồ bằng vải hoa màu xanh và tím, tóc dài xỏa ngang vai. Chàng ngập ngừng không biết có nên bước vào nhà hay không, Lãm Trang đã nói:
“Vào đi anh, em đang đợi anh về; em nghĩ phải đợi quá nửa đêm. Nhưng bây giờ chỉ mới chín giờ rưỡi…”
“Sao em biết anh ở đây?”
“Tình yêu cho em biết … với lại có việc gì mà chị Tám giấu em được.”
Rồi Lãm Trang mỉm cười nói tiếp: “Ngồi xuống đi anh, em đã pha trà để mời anh. Có cả bánh ngọt nữa.”
“Em chu đáo thật.” Minh Nhật ngồi xuống ghế đối diện với nàng.
Mấy phút trôi qua trong im lặng, nàng xúc động nhìn ngắm nét phong trần trên khuôn mặt chàng dù vậy vẫn không làm mất vẻ hoà nhã, điềm đạm. Chàng thấy nàng vẫn xinh đẹp như xưa, có vẻ hơi gầy nhưng như thế càng thêm duyên dáng, khuôn mặt nàng toả lan kín đáo một vẻ sầu muộn tuy mơ hồ nhưng đủ cho chàng cảm nhận và làm lòng chàng đau nhói.
“Dù em biết anh không muốn gặp em, em vẫn đến.”nàng nói. “Phải chăng anh đã nghi ngờ lòng em và nghĩ rằng em đã bội ước?”
“Không, việc em lấy chồng là do sự sắp xếp của bố mẹ em. Nhưng anh muốn em quên anh như quên một buổi hoàng hôn buồn nào đó trong một chuyến lữ hành.”
“Nhưng tình yêu đã không để em quên và em cũng không muốn quên anh. Còn bây giờ nếu anh muốn em đi, em sẽ ra khỏi nhà này lập tức.” Nàng vừa nói vừa đứng lên. Nhưng chàng đã kịp nắm lấy cổ tay nàng:
“Không, không phải thế, em đã nói hết chuyện của em cho anh nghe đâu và anh cũng có câu chuyện của anh nữa.”
Lãm Trang ngồi xuống lại, khuôn mặt buồn buồn của nàng trở nên dịu dàng thư thái, nàng vừa nhìn chàng với đôi mắt long lanh vừa kể chuyện. Nàng đang phụ trách một xưởng may với bốn mươi máy cá nhân, ngoài các loại áo thông dụng và áo kiều, xưởng còn nhận may quân trang cho quân đội Pháp và cho quân đội Việt Minh. Với người trước là quan hệ khách hàng với người sau là nghĩa vụ yêu nước. Với các lô hàng đưa lên chiến khu, xưởng may của nàng phải bù lỗ cả về tiền công lẫn tiền mua nguyên liệu. Nàng nhấn mạnh rằng chỉ khi đi hưởng tuần trăng mật ở Sầm Sơn, Quý Dương mới cho nàng biết chàng ở trong tổ chức Đảng. Nỗi sầu muộn của nàng cũng không vì thế mà tăng lên hoặc giảm bớt. Từ lâu nàng vẫn luôn dò hỏi tin tức về chàng từ các công nhân may quê Phát Diệm nhưng không một ai biết. “Hôm nay, nàng nói, em mừng phát điên khi gặp lại anh.”
Đến đây nàng dừng lại để lắng nghe chàng kể lại nỗi sỉ nhục và đau đớn của chàng khi rời Nam Định, chàng đã có ý định tự tử. Sau đó chàng đăng ký vào lính Pháp mà nàng có thể hiểu cũng là một cách để gia hạn sự tự tử cho đến lúc Việt cộng bắn chết chàng , nàng dịu dàng lấy tay nắm lấy bàn tay chàng hôn nhẹ và nói: “Anh khờ quá, em có đáng cho anh phải làm thế đâu.” “Nhưng anh đã hoá cuồng vì quá yêu em.” “Thế sao hôm nay anh không muốn gặp em ?” Nói xong không chờ câu trả lời, nàng đứng dậy đến ngã lưng xuống cái ghế bố nói tiếp: “Anh lại đây ngồi và trả lời em tại sao?” Minh Nhật đến ngồi trên ghế bố đằng chân nàng đáp: “Vì anh muốn giữ danh tiết cho em.” Lúc đó nàng im lặng không nói trước một câu đầy lễ nghĩa của Minh Nhật. Nhưng chàng đâu biết việc Quý Dương đã cưỡng đoạt nàng trong tịnh cốc và đã tạo ra một ức chế nặng nề trong tâm lý của nàng. Vì thế nàng đã đến đây để với tất cả sự quyết đoán, chọn lựa sự hiến dâng thân xác. Có như thế, nàng nghĩ mình mới giải tỏa sự ức chế để sau đó nàng mới có thể tái lập quan hệ bình thường với Quý Dương. Sau cùng nàng nói thật dịu dàng để câu nói không làm Minh Nhật khó chịu và đánh giá nàng: “Em không cần anh giữ danh tiết cho em. Em chỉ cần tình yêu của anh thôi. Anh còn nói về Hà Nội gặp bạn cũ lần cuối, sợ sau này khi chiến tranh nổ ra khó gặp, thế mà trong những người anh muốn gặp lần cuối ở đây và cũng có thể là lần cuối trong đời lại không có em, trong khi em đã cầu xin Chúa cho em được gặp anh một lần nữa rồi có khổ thế nào em cũng chịu.”
“Anh xin lỗi em…” chàng ấp úng nói. “Anh có biết trước đây khi anh cho em mượn một cuốn sách truyện, em thấy giữa những trang sách có một tờ giấy khai sinh của anh, em đã giữ lại. Khi lên Hà Nội, em đã dùng nó để lấy số tử vi cho anh. Thầy tử vi nói sau này anh phải sống ly hương và về già phải gởi nắm xương tàn nơi đất khách. Số anh và em phải sinh ly tử biệt. Lúc đó em đã khóc trên vai chị Tám suốt đêm.” Nàng nói và hai dòng nước mắt trào ra từ đôi mắt lá răm của nàng, làm ướt hàng mi cong đen bóng.
“Anh biết lỗi của anh rồi …” “Chẳng lẽ em không có gì đáng cho anh ước muốn mà chỉ đáng cho Quý Dương chồng em tận hưởng trong sự đắc thắng hay sao? Sự tận hưởng ấy lẽ ra em phải dành cho anh trước vì em biết tình yêu của anh đối với em rất thâm sâu và em vẫn muốn giữ lại một kỷ niệm sâu đậm về anh trong lần gặp có thể là sau cùng này.” “Em đáng, Trang ơi, em xứng đáng hơn thế ...” Chàng lắp bắp nói. Sự cảm động đã làm Minh Nhật không còn e dè gìn giữ như lúc ban đầu nữa. Ngọn lửa tình yêu mà chàng muốn vùi sâu trong đám tro tàn bỗng bừng cháy mãnh liệt. Chàng nhoài người trên mình nàng và gắn đôi môi còn thơm mùi rượu vào đôi môi mọng của nàng với câu nói thì thầm, “Anh mãi yêu em”. Sau cái hôn dài say đắm ấy, chàng bế xốc nàng đặt lên giường nệm. Tấm thân cẩm thạch của nàng trong chốc lát phô bày trên nền tấm ra cũ tạo nên một tương phản kỳ lạ với tấm ra giường rồi chàng vuốt ve, hôn hít. Sau cùng trong cơn sốt của tình yêu hai người đã dâng hiến cho nhau cho. Chàng đi sâu vào nàng với tất cả nhiệt tình, đến lúc họ tưởng mình tan chảy vào nhau nhờ những nỗ lực kết dính và thiêu đốt nhau trong ngọn lửa vô hình kỳ diệu.
Rồi họ nằm sát vào nhau, ôm nhau không một mảnh vải trên người và đi vào giấc ngủ. Quá nửa đêm một cơn mưa đầu mùa chợt đến, hắt những giọt mưa vào chỗ họ nằm qua cửa sổ trên cao mà gió đã mở tung. Minh Nhật giật mình thức giấc, chàng bước ngang qua người nàng trong chăn để khép cánh cửa sổ lại, ánh sáng đèn ngủ chiếu cái bóng chàng in lên trần nhà như bóng một cây cổ thụ. Thời gian ngắn ngủi ấy đủ để nàng nhìn trộm chàng như một một bức tượng Hy Lạp khoả thân. Một lát sau họ lại cựa quậy dưới tấm chăn chắn bụi mưa và chàng lại đi sâu vào nàng một lần nữa. Tiếng rên rỉ của hai người to hơn, như được cộng hưởng với tiếng mưa đêm và gió thổi bên ngoài.
Buổi sáng nàng dậy sớm khi trời còn mờ đất, quần áo chỉnh tề nàng trở về xưởng may để chàng ngủ yên trong cái chăn cũ. Nàng ghé vào chợ mua ít thức ăn sáng cho mình và cho chị Tám tối qua ngủ lại giữa văn phòng. Hai đêm sau họ lại tiếp tục vui vầy hạnh phúc của một tình yêu say đắm bất chấp mọi ngăn trở. Sáng ngày thứ ba, khi sắp sửa cùng chị Tám ăn sáng, Lãm Trang nghe bảo vệ báo có người đến tìm nàng. Nàng bước ra gặp ngay sư Tịnh Chiếu, sư bác của Quý Dương. Ông nói:
“Sư bác đến hỏi thăm Quý Dương chồng cháu có về thăm nhà không?” “Vừa qua chồng cháu có về và đã ra lại Hải Phòng được mươi ngày.” “Thế à, chồng cháu vẫn khoẻ chứ?” “Vâng chồng cháu vẫn khoẻ, nhưng có việc gì không bác ?” “Có chứ, số là Phật giáo cứu quốc được thành lập mà sư bác là một ủy viên trong ban chấp hành. Sư bác cũng giới thiệu chồng cháu làm một ủy viên phụ trách ở Hải Phòng. Trong vòng một tháng nữa sẽ có tài liệu hướng dẫn tổ chức và hoạt động, cháu nhắn chồng cháu về lấy ở chỗ sư bác.”
“Vâng cháu sẽ nhờ một công nhân sắp về Hải Phòng thăm mẹ bệnh báo cho chồng cháu biết để về gặp sư bác.” “Và nhớ phải giữ bí mật đấy.” “Vâng ạ.” Trong lúc ăn sáng với Lãm Trang, ông quay ra công kích các cố đạoTây Dương có lẽ do nỗi bực tức phải đi ngang một nhà thờ để đến nhà và xưởng may của cháu dâu vì đó là lối đi duy nhất vào một ngõ lớn nhưng là ngõ cụt. Ông nói, “Bề ngoài bọn họ tuyên bố đến Việt Nam giảng đạo nhưng thực chất giống như bọn côn đồ xông vào nhà người khác lật đổ bàn thờ tổ tiên, hiếp dâm con gái người ta làm con gái người ta mang thai rồi còn bắt người ta thừa nhận đứa bé sinh ra là cháu thừa tự trong khi nó mang một dòng máu ngoại lai xa lạ. Thật là trắng trợn khi thực chất truyền giáo là như thế…Vậy mà cũng là một tôn giáo. Đồ chết tiệt…”
Mãi nói và ví việc truyền giáo như việc hiếp dâm, ông không nhận thấy hai chữ ‘hiếp dâm’ đã làm Lãm Trang thấy khó thở như trước đây trong tịnh cốc của ông tại chùa Long Vân, nàng đã bị khói nhang gây dị ứng trong lúc Quý Dương vầy vọc và chiếm hữu thân xác của nàng. Nàng vội vã đi vào nhà sau té nước vào mặt mình và hít thở sâu để qua cơn sốc. Sau đó nàng quay vào tìm cách đuổi khéo sư bác của Quý Dương. Nàng nói:
“Sư bác nghĩ đến chuyện ấy làm gì cho mệt trí. Người Việt chúng ta không phù hợp với đạo Chúa đâu vì tâm thức họ đã được huân tập lâu ngày trong tính không của Phật giáo và đạo đức thực tiễn của nho giáo. Số ít người Việt theo đạo chỉ là hình thức, một thời gian sau họ cũng sẽ quay về tập quán tốt đẹp của truyền thống mà thôi bởi lẽ không phải vượn làm sao leo cao được, không phải chim làm sao bay được.”
“Cháu nói thật chí lý.” nhà sư kêu lên. Nghe câu nói ấy của cháu dâu, ông thấy yên tâm không cần phải ‘lên lớp’ chính trị cho nó nữa, ông còn thầm khen Quý Dương đã khéo chọn được vợ ngoan ; ông nói tiếp, “Bây giờ bác phải đi họp đây.”
“Trưa nay sư bác quay lại dùng cơm với cháu nhé; cháu sẽ nấu cơm chay cho sư bác.” Nàng mời lấy có. “Thôi, họp xong sư bác đến chùa Bút Tháp thọ trai với mấy nhà sư trong tổ chức, ngủ đêm ở đấy, sáng sớm mai sư bác lại về Nam Định.” Sư Tịnh Chiếu nói và bỗng nhiên ông sung sướng biết mình sắp gặp nhà sư Quảng Trí tuy còn trẻ nhưng ông đánh giá là rất có nhiệt tình với Phật pháp và trước hết là với đảng.
Tối qua Quảng Trí nghỉ đêm tại nhà bà Tri Tân và “an ủi” bà suốt đêm. Hai đứa con bà, Mạnh Hà đến nhà bạn học thi, còn Giáng Vân nói đi tham quan trong một hãng thuốc. Mặc kệ chúng, bà nghĩ, cho chúng đủ tiền ăn học là được rồi. Sáng nay nhà sư trẻ Quảng Trí còn ngồi nấn ná bên bà, cùng ăn sáng với bà trước khi đi đến cuộc họp. Thỉnh thoảng họ nhìn nhau đắm đuối, tuy nhiên trong cái nhìn của bà Tri Tân ngoài sự mê đắm còn biểu lộ lòng thành kính của tín ngưỡng.
“Vâng sư bác đi mạnh khoẻ, bây giờ cháu cũng đến xưởng coi các chuyền may đã làm việc đồng bộ chưa.” Lãm Trang nói với sư bác và tiễn ông ra cổng. Khi nhà sư đi rồi, nàng sai chị Tám ra chợ mua mấy cái quần đùi, áo thun , kem đánh răng, khăn bông, mấy gói thuốc Camel và ít vật dụng khác cho Minh Nhật vì đêm nay là đêm cuối chàng còn ở lại đây, ngày mai chàng sẽ lên Gia Lâm trình diện ở một đồn binh của lính lê dương mà nàng đã ghi địa chỉ. Nàng cũng sẽ đưa cho chàng hai mươi đồng để chàng chi dùng. Nàng vẫn tin lời thầy tử vi rằng sự sinh ly tử biệt của họ sắp đến rồi.
Trong lúc đi giữa hai hàng máy may kêu rầm rì không ngớt, bừa bộn những mảnh vải ka-ki chưa ráp của mũ ca-lô, túi dết … may cho quân đội viễn chinh Pháp, nàng chợt nhớ mình đang ở giữa kỳ kinh nguyệt là thời gian mà người phụ nữ rất dễ thụ thai. Một nỗi lo lắng hồi hộp nhưng không chút u buồn xâm chiếm lấy nàng. Lúc đó nàng đi vòng xưởng may ấy đến một nhà kho luôn khoá cửa. Đó vừa là một nhà kho vừa là một xưởng may bí mật chỉ hoạt động về đêm nơi các công nhân thân tín đã hoàn tất một lô hàng gởi lên chiến khu hai ngày trước khi nàng gặp lại Minh Nhật. Trong thời gian thực hiện lô hàng nàng phải bố trí người canh gác để báo động phòng khi có cảnh sát đến khám xét. Nàng và một trưởng chuyền đã phải thay phiên nhau thức sáng đêm để kiểm soát, còn chị Tám phải ở lại để nấu nước và phục vụ bữa ăn khuya cho thợ. Minh Nhật đã lên Hà Nội đúng lúc lô hàng vừa mới gởi đi và ca đêm tạm ngừng, chờ người của chiến khu về đặt hàng mới. Việc hai người gặp nhau thật bất ngờ mà như đã có hẹn trước.
Đến một góc nhà kho nàng dừng chân và nhớ lại thái độ hằn học của sư bác Tịnh Chiếu đối với đạo Chúa, nàng thấy rất kỳ lạ. Thì ra thái độ từ tốn, hỷ xả, khoan hoà của sư bác chỉ là cái vẻ bề ngoài phải có của một chức vụ tôn giáo chứ không bộc lộ sự thanh cao nào của nội tâm. Nàng định hôm nào sẽ hỏi rõ Quý Dương nguyên nhân đã làm sư bác căm thù đạo Chúa đến thế. Dù gì lòng căm thù ấy sẽ làm hỏng đi, làm mê mờ mọi ý hướng tốt lành trong thái độ yêu nước (nếu có) của sư bác. Rồi Lãm Trang đến ngồi xuống một ghế đá gần đó. Mặt ghế đá lạnh làm nàng hơi rùng mình, khiến nàng chợt nhớ lại phần thân thể ấm nóng mà Minh Nhật đưa sâu vào người nàng, như đốt lên trong người nàng một ngọn lửa lung linh ấm cúng. Nàng thử nghe ngóng thân thể nàng đã có thay đổi gì sau mấy đêm nhận được những mầm sống từ Minh Nhật trao ban và đặt sâu vào da thịt của nàng. Nàng không nhận thấy gì cả… ngoài một dư vị tê tái của niềm hoan lạc đêm qua còn đọng lại.
Tối hôm cuối cùng ấy, thời gian quả là ngắn ngủi với nàng và Minh Nhật, họ gần như thức trọn đêm. Họ tận hưởng việc âm dương giao hoà và tiếng rên rỉ của họ đã trở thành một điệp khúc ly kỳ ken kín không gian của căn nhà nhỏ bé ấy.

(Xem tiếp phần 4)

 
 

Vĩnh An Nguyễn Văn Sơn