Hồn Ma Biển


 
 
 

9.
Cái miếu dựng tạm trên bãi cát để làm chỗ thờ Ông lụy năm ngoái bỗng nhiên được ông chủ sở cá cho khẩn trương nâng cấp. Gạch, cát, xi măng ùn ùn từ đất liền chuyển ra đảo, để vừa sửa miếu thờ Ông vừa sửa nhà ở của ông Tám. Mọi người thì thào rằng hình như ông chủ Tám muốn đánh dấu, muốn chuẩn bị cho một điều gì đó, hay muốn bắt đầu một việc gì đó, ngay ở làng Bích Đầm này chứ không phải ở làng Kim Bồng. Thật ra thì từ lâu rồi, nơi con người này, đã bắt đầu cùng lúc hai nghịch lý trầm kha, đeo đẳng như mệnh kiếp.

Vóc dáng mạnh mẽ, thích ăn ngon mặc đẹp, ưa chuộng chuyện ân ái…, rõ ràng ông là đỉnh cao của sinh lực đàn ông, là mẫu mực ưu thắng của nam giới. Nhưng điều nghịch lý, ngược chõi thứ nhứt, có tính ngoại tại và thể hiện nơi sinh hoạt hằng ngày, chính là tình trạng bên cạnh ông, kề cận ông chỉ thường trực toàn là nữ giới, điển hình là ba bà vợ và sáu đứa con gái.

Rồi bậc nam tử hán khôi ngô tuấn tú, niềm hãnh diện của dương gian, tràn ngập dương khí của người phàm này thì lại có kiểu mặt “tâm linh” – một cánh cửa u linh dẫn vào cõi Âm. Trong những giây phút khác thường, đôi mắt Âm dương đã cho phép ông Tám nhìn thấy hồn thần linh cùng hồn ma quĩ. Rốt cuộc, điều nghịch lý, mâu thuẩn thứ hai, có tính nội tại, là Âm khí đã can thiệp vào cuộc đời ông Tám qua sự xuất hiện của thần Biển. Và Âm giới đã chính thức chia xẻ hơi thở của một con người dương thế như ông, qua bản giao ước thiêng liêng mà ông đã không chút đắn đo, ký kết nhanh gọn với thần linh.

Xét về bề ngoài, ai cũng thấy ông Tám không thể là người vô thần, vì ông luôn luôn tỏ ra sùng tín, nghiêm cẩn trong tín ngưỡng của mình. Trong nhà ông có một căn phòng riêng biệt dành thờ Phật , cũng như trên chùa Tỉnh hội Phật giáo tỉnh Khánh Hòa cũng có một bảng vàng dành riêng để ghi phần công quả đóng góp liên tục và hậu hĩnh của ông. Ông Tám còn tin chắc rằng bên cạnh cuộc sống, vật chất thế gian có thể nhìn thấy và cầm nắm được, còn có một thế giới khác, hoạt động song hành với dương trần – đó là cõi Âm. Đó là một thế giới vô hình, có một số cư dân thượng lưu, có quá trình tu hành từ nhiều kiếp trước đó, thường là có chức vụ này nọ, đặc biệt là thường làm việc tốt, theo nghĩa là việc có lợi cho người phàm, thì gọi là các thần linh. Còn lại là số cư dân mạt hạng, không danh giá, dễ gây điều xấu, điều bất lợi cho người phàm thì chính là đám ma quĩ, cô hồn các bác…

Nhưng sâu xa hơn, thần linh sẽ cảm thấy không hãnh diện chút nào khi biết rõ được thực chất lòng tin tưởng của ông Tám. Ở vị thế một người có kiểu mặt “tâm linh” và có khả năng “thông linh”, ông Tám đã dửng dưng cào bằng, xem như ngang nhau mọi thứ linh hồn, nói chung là mọi thực thể vô hình, vô chất. Theo ông Tám, thần Biển cũng chỉ là một loại hồn phách cổ xưa, tồn tại trong lòng biển cả - tồn tại thôi, không thể nói hồn phách vô hình lại sống thở, đổ mồ hôi như các loài sinh vật, thực vật. Cũng có huyền thuyết cho rằng loài thủy tộc thượng đẳng là cá voi, nếu tu luyện lâu năm – thường phải là niên hạn kha khá cỡ vài trăm năm, vài ngàn năm - thì khi chết đi, cá sẽ hóa thần. Dù sao nghi vấn này cũng chỉ có thể thuộc về một thuở hồng hoang nào đó, tức lúc loài người chưa có mặt trên trái đất. Khi loài người xuất hiện, một số cá thể hồn phách thần linh, kiểu thần Biển, lại tiếp tục tồn tại theo biển. Đến lượt loài người chết ngoài biển thì theo lẽ tự nhiên, một tập đoàn hồn ma gốc loài người, tồn tại bên cạnh các hồn thần linh. Tuy sinh sau đẻ muộn nhưng lực lượng hồn ma người ở biển thì phồn tạp gấp vạn lần nhúm hồn thần linh. Chết từ sông hồ trôi ra biển; chết vì chìm ghe, đắm tàu, rơi máy bay; chết vì bị hải tặc quăng xuống nước; chết vì sóng thần tràn vào bờ, cuốn ra khơi .v.v…Số lượng hồn ma người ngoài biển không lúc nào ngừng tăng thêm. Đó là chưa nói đến trường hợp tro cốt được đổ xuống biển theo ý nguyện của một số người chết trong đất liền, đáng lẽ là không dính líu gì đến sóng nước biển khơi.

Nói khác đi, khi vì lợi ích riêng mà phải đầu lụy cư dân của biển cả, thì con người vừa có thể van vái thần Biển lại vừa có thể cầu cạnh những oan hồn, uỗng tử vẫn vơ trong sóng nước. Do đó, chỉ cần khôn khéo khi chọn lựa các giao dịch đối với thế giới vô hình này, chứ con người không cần thiết phải có tấm lòng kính sợ, thật sư thần phục đối với một trong hai loại hồn ma đối tác – dù là thần linh hay ma quĩ.

Căn cứ vào cái kiểu tin tưởng cùng lúc là Phật Tổ, Bà Quan Âm, Thần Tài, Ông Nam Hải…, cùng vô số cô hồn các bác trên biển, thì người ta có thể gọi ông Tám là người đa thần, cùng lúc thờ nhiều thần thánh. Chính xác hơn thì phải gọi ông Tám là người phiếm thần, tức tin rằng ở đâu cũng có thần, mọi vật đều ẩn chứa thần. Nguyên đối với con người thượng cổ, do trong thiên nhiên có đủ thứ sức mạnh như sấm sét, bão bùng, lũ lụt, thú dữ…, có thể dễ dàng giết chết họ nên họ cứ phải tin tưởng và thờ phượng đủ thứ thần. Loài người sơ khai nhìn đâu cũng cho là có thần, từ thần Sấm Sét, thần Gió, thần Bão, thần Nhiệt… , cho đến thần Sông, thần Rừng, thần Hổ, thần Cá, thần Mam-mút.v.v… Theo dòng lịch sử và huyền thoại, các tôn giáo đa thần và phiếm thần đã để lại nhiều dư âm trong đời sống tâm linh nhân loại, đặc biệt là có ảnh hưởng lớn riêng đối với ngư dân. Một loài thủy tộc to xác, một hòn đảo, một vực biển, một luồng lạch, một xoáy nước, một trận gió…, tất cả đều là thần linh các cấp lớn nhỏ, hoặc ít ra là đều có thần linh cai quản, buộc con người phải cúi đầu kính sợ, cảnh giác.

Thậm chí, giữa đêm mắc tiểu, bước đại ra một mé vườn, gần một gốc dừa nào đó, ông Tám không bao giờ bỏ quên thói quen van vái khi vén quần đứng tiểu. Cô hồn các bác nào đó, làm ơn xích ra cho tôi đái, cám ơn. Ông Tám luôn luôn nói thành tiếng, nói ra lời rõ ràng dù lúc đó ông có kịp nhìn thấy ai hay cái gì không nữa. Nghĩa là chỗ nào có bóng tối là có sự tồn tại của người khuất mày khuất mặt. Và phép lịch sự của người đứng tiểu là phải ra lên tiếng - không phải là xin phép mà là thông báo, đề nghị vị ẩn mặt nào đó nếu tình cờ xớ rớ ngay lúc đó thì nên tránh qua một bên để khỏi bị dính nước tiểu của người phàm. Chỉ có những cặp trai gái buông tuồng, lấy góc vườn tối làm chỗ ân ái chóng vánh, mới trơ tráo không thèm lên tiếng, báo cho người cõi Âm tránh qua một bên…

Phần biển trên trái đất thì bao la, còn rộng hơn cả phần đất liền, nên con người mới chia biển thành các đại dương, các vùng duyên hải, trong đó có khu vực biển Nam Hải. Rồi thần Biển khu vực này lại được người trần gian ngư-hình hóa thành cá voi, tức Ông Nam Hải. Phải kể thêm hai vị thần tùy tùng cho Ông, mang hình hài cá ba hầu và cá đao, là hai loài có kích thuớc còn lớn hơn cả cá mập. Cá ba hầu có phần đầu phát triển thành một mũi xương nhọn thật dài và nhọn, trong giống một ngọn giáo của thổ dân, và đặc biệt là phần vây lưng tỏa rộng, khi dựng đứng trông giống như một lá cờ, đúng hơn là một cánh buồm. Cá ba hầu cỡ nhỏ thì dân đi biển gọi là cá cờ, cỡ lớn siêu hạng mới được họ gọi là cá ba hầu, hay cá ông hầu - con cá theo hầu Ông. Người dân biển lại không hề biết cũng chính một con cá kỳ vĩ loại này đã được một nhà văn kiệt xuất người Mỹ chọn làm một trong hai nhân vật chính của mình trong một tuyệt tác của ông, có tựa là Ngư ông và Biển cả. Còn về con cá đao, phần đầu cũng phát triển thành một thanh xương dài, dẹp, trông giống một thanh đao của các hiệp khách Trung Hoa. Lưỡi đao của vị thần phò tá Ông còn được điểm tô bằng những mấu sừng, trông giống những cái ngạnh nhọn hoắc, đầy đe dọa.

Khi hiện đến với ông Tám, thần Biển đã tự nhân-hình hóa mình thành một lão ngư phủ. Thần đã giải thích rằng cá voi chỉ là kiểu ngư-hình hóa độc đoán của Ngọc Đế dành cho thần, do đó, như một kiểu chống đối tiêu cực, thần thích hiện thành người hơn. Điều này cho thấy thần Biển khá hàm hồ vì không phải là do bàn tay Thượng Đế mà chính là do người phàm đã làm công việc ngư-hình hóa thành Biển thành cá voi, khi loài người bé nhỏ quá xúc động trước kích thước vĩ đại của giống loài này.

Theo truyền thuyết, khi với hình dạng cá voi mà không hoàn thành công tác cứu độ người - chưa tới số chết - mà bị nạn ngoài biển, thần Biển sẽ bị hai vị thần tùy tùng của mình, tức cá đao và cá ba hầu, xử tử bằng mũi giáo nhọn cùng mũi đao ngạnh, tưởng như chỉ là vật trang trí hay vũ khí để đánh nhau, dành bạn tình nơi hai loài cá này.

Cũng trong truyền thuyết, lại có một trang rất buồn thảm, đúng hơn là rất bi tráng, mà trong lúc hiển linh trước mặt ông Tám, thần Biển đã chợt ngậm ngùi tấc dạ, suýt tí nữa đã tiết lộ với gã người phàm. Có một nữ Nam Hải Tướng Quân, mang hình hài một con cá voi cái, đang lúc chuyển dạ, sắp sinh ra cá voi con. Chợt bão dữ lại nổi lên ở một vùng biển xa, đe đọa nhấn chìm một số ngư phủ chưa tới số chết. Ở một nơi còn xa xôi, mù mịt hơn nữa, tạm gọi là cõi Thần, có vị thần nắm quyền quản trị nhưng không hề sâu sát thực tế dưới biển, lại truyền tới cái lịnh công tác khẩn cấp, không hề khác cung cách cửa quyền, đui mù, của mấy ông quan chức trên trần thế. Trước cái nhìn lạnh lùng, vô cảm của hai tiểu tướng hộ giá là cá ba hầu và cá đao, đành phải lấy hết sức lực, bụng mang dạ chữa lê mình vượt qua phong ba bão táp, bơi đến chỗ người gặp nạn. Công việc cứu hộ con người hoàn tất, nhưng nữ Tướng Quân của biển cả đã sức cùng hơi cạn. bục dạ sinh non một hài nhi, rồi cả hai mẹ con đều rũ chết. Hai cái xác cá voi tắp vào một bãi biển cũng thuộc vùng Nam Hải. Dân làng chài nơi đó không biết làm gì hơn là tổ chức lễ tang, hỏa thiêu rồi lập miếu thờ chung hai mẹ con nhà cá voi. Con người lại càng u minh, không thể biết khúc nôi, diễn tiến của tấn thảm kịch. Do đã hoàn thành nhiệm vụ cứu người nên Nam Hải cùng con mình đã không lụy vì vũ khí hành hình của hai tùy tướng cá cờ và cá đao, mà đã chịu hy sinh vì đã lấy hết sức tàn đi cứu người trong hoàn cảnh oái ăm, bất khả. Ở bình diện siêu hình, đó là sự chấm dứt tồn tại của một vị thần trong hoàn cảnh thật bi tráng. Nhưng ở bình diện hữu hình của đời sống sinh vật tại thế, ở đây chỉ là bi kịch. Tấn bi kịch sâu sắc ở chỗ, thay vì một khai mở đầy hân hoan - cá voi con ra đời, lại là một kết liễu đầy oan nghiệt – cái chết của cả hai mẹ con nhà cá voi.

Là vị thần kế nhiệm tại vùng biển Nam Hải này, Ông đang hiển linh đã biết rất tường tận tấn thảm kịch. Do đó, từ vô thức của giống cá voi, thần đã cưu mang đến hai nỗi ám ảnh không thể nguôi quên. Khi mường tường tới một lúc nào đó, mình có thể bê trễ, không hoàn thành nhiệm vụ, thì thần Biển thấy ngay cái hình ảnh tối ám, đầy khó chịu: bị mang hình hài cá voi thì gắn liền với hai con cá dị thường, đi theo sát cá voi. Vậy cương vị thần linh lại bao hàm cùng lúc tới hai cái Ngã đối kháng nhau đầy tủi nhục – vừa là thần linh được hầu tá, vừa là tội đồ bị hành quyết. Rồi khi lo lắng chu toàn nhiệm vụ, nổ lực hoàn thành xuất sắc mọi chuyến cứu độ con người, thì thần Biển lại thấm thía, bị ám ảnh sâu xa về trường hợp hy sinh vì công vụ của tiền nhiệm.

Trong tâm tư thần Biển, hai nỗi ám ảnh nặng nề ấy đã góp phần tạo nên một thái độ trái thường, mặc cảm không thể cưỡng lại đối với chính hình thức thể hiện của thần, là thần đã chối bỏ hình dáng cá voi khi giao dịch với bọn người phàm.

Thần Biển đã tỏ ra thiếu thiếu tự tin như thế thì chẳng trách được ông Tám đã ngấm ngầm chỉ xem thần Biển là đối tác trong giao dịch làm ăn với mình mà thiếu hẳn lòng kính trọng chân thực đối với thần linh. Chỉ có một điều được xem là có giá trị cứu chuộc phần nào cho danh giá thần linh, là ông Tám sợ thần Biển hơn sợ đám cô hồn ngoài biển. Vì thần Biển có thể ban bố sự may mắn, cho trúng nhiều tôm cá và che chở lúc bão bùng, nên ông Tám cảm thấy mình phải nể sợ Ông, phải chú ý việc lấy lòng – thậm chí là bằng cách đút lót, hối lộ - vị có chức có quyền này. Còn về đám cô hồn, không khác một lũ du thủ du thực lang thang trên biển cả, chỉ có khả năng gây rối, phá phách việc làm ăn của ông Tám chứ không có quyền năng cho, tặng ông một mối lợi nào, thì ông chỉ cần tốn chút ít quà bánh, bạc lẻ để trấn an bọn chúng.

Căn cứ theo lòng tin tưởng – một cách công bằng – của ngư dân, phải nói rằng trước khi thần Biển hiển linh, tiếp xúc với ông Tám, thì sự khấm khá, ăn nên làm ra của ông chủ sở cá này là do nhận được tác động của cả hai phía ma quĩ và thần linh. Cánh cô hồn thì không cần phải tích cực làm gì đó cho ngư dân, có nghĩa là cứ không phá rối là đã tác động tốt cho nghề đi biển. Còn cánh thần linh như Ông Nam Hải, vốn có chức năng cứu độ cho ngư dân khi có bão biển, thì thật đáng chán chê là so với kiểu “cứ ở yên – đừng phá phách” nơi cánh ma quĩ, thần Biển cũng không kém phần tiêu cực. Do theo ý chí của chư thần cấp trên thần Biển, bão biển chỉ lấy mạng những tên ngư dân đã tới số phải chết, chết ở biển, nên thần Biển chỉ có chức năng cứu độ những người chưa tới số chết và thần không được phép cưỡng lại số Trời. Công việc cứu độ khi hữu sự này là giàn đều cho bất cứ con người nào chưa tới số, chứ không riêng gì cho ông Tám cùng sở cá của ông.

Vậy dù có thật sự, hiển nhiên gây họa hay ngược lại là tạo phước cho ngư dân, thì hệ thống tác động của các hồn linh trên biển - không phân biệt là hồn cao cấp, cổ xưa như thần Biển hay các cô hồn hạ cấp, tạp nhạp, mới chết gần đây – rất hàm hồ, không minh bạch. Động trạng bấp bênh, thiếu tích cực này cho thấy, riêng về cánh thần linh, Ông Nam Hải cũng chỉ là một vị thần thuộc loại thần hạng hai, hạng ba trong cõi thần, có quyền lực khá hạn chế.

Tuy vậy, lão ngư ông vui tính, nói nhiều, thông minh trên mức láu lĩnh, đã tự dưng hiện ra trước mặt ông Tám đêm nào, quả là một ông lão dễ mến. Người ta chỉ có vẻ dễ mến, dễ gần khi có lộ ra ít nhiều bất toàn, yếu đuối trước mắt nhìn của người khác. Một người đã hoàn hảo, đầy quyền lực, chỉ nằm ở một chiều quan hệ duy nhứt đối với người khác là ra lịnh và ban ơn thì kỳ cùng, chỉ được người khác, nhứt là người thọ ơn, kính nễ ngoài mặt chứ không hề thương yêu. Ngay cả nơi những mẫu người đời biết xem ơn sủng của ai đó ban cho mình như một gánh nặng tinh thần, trước sau gì cũng phải cố gắng báo đáp, thì chính vô thức của những con người này tự gây ra cho họ cảm giác thấp kém, như thể giá trị nhân cách của họ như bị xếp dưới người ban ơn. Lập tức bản năng sinh tồn chỗi dậy, cố gỡ gạc cho sự xuống giá nhân phẩm gì đó, khiến người ta không thể nào thương yêu kẻ đang vượt lên trên mình, nếu không nói là đã nhen nhóm cảm giác thù hận. Ngược lại, người ta có cảm tình dễ dàng với người nhận ơn sủng của mình – người bị xếp dưới mình...

Khả năng thần linh thì dư sức thấu thị mà biết rõ thói đời, thói bạc bẽo của bọn người trần gian là như vậy, nhưng thần Biển vẫn ngông nghênh, tung hê mọi sự thủ thế cần thiết. Mới phút sơ giao mà thần đã thú nhận nhược điểm cá nhân là còn lệ thuộc vào Thượng Đế - cấp trên của mình về chuyện hình hài, vật chất thể hiện cái hồn thần linh của mình. Thần còn thố lộ mình khâm phục óc thông minh của con người qua cảm tình dành cho con cá heo, chỉ muốn mang hình hài cá heo, chỉ vì nó sáng dạ, thông hiểu gần bằng con người.

Cảm động nhứt là lời bộc bạch “chọn tên Lý Ân, phò độ cho hắn không phải do phẩm hạnh của hắn”. Biển cả ngàn triệu năm qua hẳn là buồn thảm, hiu quạnh lắm. Nghiêm khốc nhứt là biển cả đơn điệu, ù lì và phi lý đến nỗi vị thần cai quản biển, như một cơn cuồng ngạo, thả lỏng mọi khuôn phép của chư thần, hành động như một trò chơi. Miếng chơi ngoạn mục này cũng phi lý y như biển cả - bất chấp cái lệ luật chai cứng thiên địa là hướng về người tốt, nhứt định chọn tên Lý Ân không đủ đức độ. Có thể nói, chính thần Biển cũng không ý thức được chỗ tuyệt đỉnh, điều có ý nghĩa nhứt của quyền năng mình là có thể tự ý làm việc trái thường như thế. Nhưng đó cũng là chỗ đáng tội nghiệp nhứt của một vị thần. Vì quá cô đơn, cô độc, cứ phải sống nặng nề, bế tắc cả trăm năm, ngàn năm qua, lại thiếu vắng mọi trò vui cho khuây khỏa, nên thần mới tự dẫn dắt mình tới hành vi có phần điên đảo như thế. Nhưng dù có điên rồ thì thần Biển cũng đã ký thác hết danh phận và hạn mức tự do của một vị thần vào cuộc chơi biết đâu là cuối cùng này.

Chỉ tiếc là cuộc chơi đó lại đang bị đe dọa biến thành bi kịch khi thần Biển, bằng tất cả cảm xúc hơn là cân nhắc mà lao theo trò chơi ngông ngạo, đã gặp phải mẫu người đầy khát vọng quyền lực như ông Tám. Luôn luôn tự xếp mình trên người khác và miễn cưỡng khi thọ ơn phò độ, thì làm sao ông Tám ý thức được sự chiếu cố phá lệ của thần Biển dành cho một đối tượng thiếu xứng đáng như mình? Đứa thí sinh dốt nát thì khi được chấm đậu vớt ít khi biết chân thành cảm ơn giám khảo. Đứa con rơi con rớt thì ít khi tiêu hóa được cho hết niềm oán hận khi được người cha nhìn nhận.

Cảm nhận bội bạc của ông Tám – một phàm nhân đối với thần Biển rất mang vẻ tà ma. Ngược lại, thần Biển lại rất con người - với đầy đủ nhân tính bất toàn, đầy hạn chế, có thể hành động dửng dưng ở cả hai mặt đúng/sai, tốt/xấu… - khi chọn phò độ ông Tám.


10.
Ông chủ sở cá Bích Đầm thì giàu có, làm ăn khấm khá từ lâu rồi, nhưng để lý giải những đợt lưới thu hoạch bội thu gần đây của ông thì dân nghề biển chỉ nói đến chuyện cái miếu thờ Ông – một cá voi thiếu niên quá cố nào đó, theo lời lão thần Nam Hải - mới xây trên bãi cát. Cứ như số tài sản ông Tám kiếm được trước ngày xây miếu chỉ là do ngẫu nhiên, tình cờ, không hề do vài lý do hay thuận lợi nào khác, chẳng hạn như tài năng, mạng số, phúc đức tổ tiên…có sẵn nơi ông. Cứ như trước ngày Ông lụy, người “trưởng nam của Ông” chỉ là một tên trọc phú quê mùa, vô danh tiểu tốt.

Cần xem lại đoạn phim – rất giả tạo, vô duyên – mấy ông chức sắc, bô lão làng chài Bích Đầm làm lễ tấn phong ông chủ sở cá vào chức “trưởng nam” ấy. Vào buổi hừng động định mệnh ấy, chị đàn bà nghèo khó đã lánh ra phía sau, nhường lại cho chồng mình vai trò người đầu tiên nhìn thấy xác cá voi. Ngay sau đó, gã bạn chài chạy đi báo với ông chủ Tám. Cần biết là gã làm chuyện này chỉ với ý định là để cho chủ mình xử lý sự việc, chứ không phải gã có ý nhường lại cho ông chủ - người thứ ba theo thứ tự những người nhìn thấy xác Ông - cái danh dự làm trưởng nam của Ông. Vậy mà khi đã nắm rõ diễn tiến của sự việc, mấy lão chức việc trong làng vẫn tôn ông chủ làng – ông Tám nắm chức này thay cho cha mình – đồng thời là ông chủ sở lưới, vào chức trưởng nam của Ông, y như màn đánh tráo thái tử mới sinh ra trong cung cấm trong một tuồng hát bội ai cũng biết. Và cay đắng hơn cho gã bạn chài, chính ông chủ Tám cũng lẵng lặng, không nói ra sự thật để trả lại công bằng cho kẻ tôi tớ của mình. Ông chủ thản nhiên quấn đầu rơm mủ bạc, thể hiện cái vai con trưởng để tang “cha”. Danh giá đúng là thứ ông nhà giàu cần đến để tô vẻ thêm cho số tài sản vật chất của mình , nhưng riêng về cái danh “trưởng nam” của thần linh mà ông Tám có được lại do mấy lão chức việc trấn lột từ một kẻ nghèo, đem dâng ông như một trò nịnh bợ, lấy lòng.

Sự việc còn tác tệ hơn khi bàn theo cách nhìn siêu hình. Hẳn là có một ban bệ thần linh nào đó, đã ngồi họp trên chín từng mây hay ngược lại, là ở mấy vạn dặm dưới đáy biển, tuân theo mệnh Trời mà thảo ra quyết định thiêng liêng chọn vợ/chồng gã bạn chài làm con trưởng của Ông cai quản biển đảo Hải Nàm, khi hồn thần được lịnh triệu hồi, khiến xác Ông trôi dạt trước mặt nhân gian. Nhưng chính bọn nhân gian đã làm sai lệch mệnh Trời bằng liên tiếp hai hành động nghịch đạo, phá rối sự xếp đặt của chư thần. Một là gạt bỏ chị vợ gã bạn chài, tức phế hạ nữ giới – bao hàm tiềm năng trở thành tiên nữ trên tiên giới – ra khỏi vị trí ứng viên con trưởng của thần tiên. Hai là gạt bỏ luôn gã bạn chài, tức ứng viên dự khuyết chấp-nhận-được theo ý chư thần, vì dù là trúng vô vợ hay chồng, gia đình này cũng đang quá khốn khó, xứng đáng được nâng đỡ. Thiên mệnh còn bị sai lạc hoàn toàn nơi phần phụ lục kèm theo bản quyết định của chư thần. Đó là qui định rành mạch, rằng trong suốt ba năm để tang Ông, trưởng nam sẽ phải chịu cảnh nghèo kiết xác, mãn tang Ông rồi thì người đó mới được giàu sang, phú quí, con cái đời sau cũng cao sang quyền quí. Nhưng chư thần và người phàm đều biết rõ, khi chức danh “trưởng nam” bị cưỡng đoạt mà lọt vào tay ông Tám, thì ông ta đã giàu có sẵn rồi. Mệnh Trời đã mất tác dụng thì còn có quyền năng nào đủ sức treo lơ lững của cải của ông Tám trong ba năm tang khó, buộc ông phải nghèo đi, để rồi sau đó lại cho ông tiếp tục làm giàu?

Nước chảy chỗ trủng. Câu tục ngữ nhân gian đã quá chính xác cho trường hợp của ông chủ Tám. Đã nói là ông đã giàu sẵn từ lâu rồi. Và dù cho quyết định thiêng liêng về chức phận “trưởng nam” của Ông Hải Nàm có bị thi hành sai lạc, khiến chư thần đình chỉ tác dụng của phần phụ lục bản quyết định, thì của cải vẫn tiếp tục chảy vào túi ông Tám do Ông Nam Hải đương chức đương quyền - vị thần Biển thích hình hài cá heo, đã chọn phò độ cho ông Tám như một trò giải khuây của thần. Đầy vẻ tự mãn của một thí sinh đậu vớt nhưng có thế lực ngầm nên không thể nào rớt bảng, trong ngày làm lễ tang Ông, ông chủ Tám khuyến khích bà con dân làng ráng trườn bò trên cát, chui qua dưới gầm cái quách gỗ to lớn, chứa hài cốt cá voi sau hỏa thiêu. Lý do mà nhiều người biết là cứ chui dưới cốt Ông như vậy thì người ta sẽ được mạnh giỏi, sức khỏe khang cường. Bây không thể nào được Ông độ cho giàu như ta đây thì hãy tạm bằng lòng với sức khỏe mạnh giỏi đi, cũng do Ông độ vậy. Đó mới là thâm ý của ông chủ Tám, để cho người khác, cả làng Bích Đầm cùng hồ hỡi, phấn khởi với ông.

Tro cốt, cát biển gì thì câm nín thiên thu nhưng sóng biển thì nanh ác, tánh khí bất thường. Cuối mùa gió thổi, chiếc ghe chỉ huy của ông Tám đã gặp sóng dữ bất chợt nổi lên trong lúc từ luồng cá ngoài khơi quay trở vô đảo. Nhưng ông Tám đã thoát khỏi cơn phong ba khốc liệt. toàn mạng trở về bờ.

“Đúng là Ông độ. Có một cái bóng đen dài lắm, lớn lắm, kê mình vô gầm ghe, đỡ cho ghe khỏi bị lật úp…”.

“Thì Ông đó chớ cái bóng cái báng gì nữa! Ông lớn cỡ bao nhiêu, dài lắm?”.

“Lúc đó sóng dữ lắm, đảo điên hết, ai nấy sợ mất hồn nên không để ý. Nhưng chắc dài bằng chiếc ghe…Chắc dài bằng Ông lụy năm ngoái. Mà hỏi gì nữa? Đúng là hồn Ông dứa làng mình đang thờ đã kêu Ông khác đến độ cho ông Tám mình”.

Trong những lời của những bạn chài cùng đi trên chiếc ghe bị trúng bão, rồi những lời nhận xét, bình luận của dân làng, người ta lại đề quyết rằng, trong cộng đồng cá voi còn sống ngoài biển khơi và hồn linh của con cá voi đã chết rồi bộ cốt được thờ trong ngôi miếu từ năm ngoái, đã có những mối thông tin – liên lạc bí ẩn, miễn sao có thể cử ra một “bóng đen” kịp thời có mặt trong cơn bão. Tất cả là để cứu độ ông Tám, trưởng nam của Ông, thoát chết trong cơn bão bất ngờ ấy.

Riêng ông Tám, nhân vật chính trên sân khấu biển cả, trong vở kịch gay cấn, bi tráng có chủ đề nói về thân phận con người trước sức mạnh mù quáng của thiên nhiên, đã trầm ngÂm trong nhiều ngày sau đó. Ông để yên cho dân làng sống với suy nghĩ sai lầm rằng, qua việc ông tổ chức thờ phượng con cá voi dứa chết trên cạn năm ngoái, ông đã được hồn cá voi báo đáp hay ân thưởng gì đó.

Thật ra, xưa nay trên suốt bề dài của bờ biển đất nước này, đã không ai thống kê được chính xác là có bao nhiêu ngôi miếu, đền lớn nhỏ đã được người dân các vùng duyên hải dựng lên để thờ bất cứ xác con cá voi nào tắp vào bờ. Đó là mối quan hệ tâm linh, qua lại giữa một bên là những xác cá voi/hồn Ông và một bên là những ngư dân kính thờ xác cá voi / trưởng nam của Ông. Vậy mà, cũng suốt trong không biết bao nhiêu trận bão biển hằng năm, vô số ngư dân đã bị biển cả lấy mạng, trong đó có cả những chủ phường lưới, những bạn chài đã cúc cung tin tưởng và thờ phượng xác cá voi không thua gì ông chủ sở cá Bích Đầm. Thậm chí, những người chết vì biển này còn có lòng kính tín đối với các Ông của họ chân thực hơn nhiều so với mức tin tưởng của ông Tám dành cho Ông “thiếu niên” Hải Nàm. Và hẳn là, nếu có xảy ra thật đi nữa thì việc cứu độ của những cá voi còn sống / hồn Ông đã không hiệu quả, nhiều ngư dân thờ các Ông đã không thoát chết, ngay cả bên cạnh vụ ghe ông Tám vừa bị nạn, một số ngư dân khác, ở một ghe khác cũng mất tích.

Như thế, thực thể ngoài biển khơi nào đã cứu ghe ông Tám phải là một thế lực siêu hình khác, chứ không phải là các hồn Ông quen thuộc với giới ngư dân. Khi cho rằng chính Ông dứa đang được thờ tại làng đã cứu độ cho “trưởng nam” của mình thì quả là kiểu lý giải của dân làng chài Bích Đầm quá nông cạn và phiến diện. Còn ông Tám thì nhứt định im lặng, không hé miệng chia sẻ với bất cứ ai cái ẩn tình về bản hợp đồng thiêng liêng ký kết giữa ông và Ông Nam Hải chính danh đương nhiệm.
(Còn tiếp)

 
 

Phạm Nga