CÀN KHÔN ĐẠI NÃ DI TÂM PHÁP

 
 
 

(Đọc “H Ơ I T H U” – Hoàng Xuân Sơn, Tô Đăng Khoa)

Bài thơ “H Ơ I T H U” của Hoàng Xuân Sơn trôi như một lớp sương, thấm vào ký ức bằng thứ âm thanh không có tiếng. “Hơi Thu” không đi theo một mạch kể rõ ràng, cũng chẳng bị dẫn dắt bởi nhịp thơ quen thuộc. Đó là một cuộc bày trận chữ nghĩa theo “bát quái trận đồ”, trong đó không gian, thời gian, chủ thể–khách thể, càn khôn và tâm thức liên tục di, dịch, và “hoán vị” lẫn nhau.

Mỗi dòng xuất hiện như một dịch chuyển, đưa dần vào cảnh giới của “Đại Nã Di Tâm Pháp”. Và nếu độc giả cho phép chính mình đọc trên tờ giấy xanh mỏng dính này theo lối: cho những con chữ “hoán vị” với tia mắt nhìn, thì sau khi đọc xong có thể cảm ra: dường như toàn bộ bài thơ được vận hành bởi một dòng khí nội tâm, thấm nhuần thứ khí công đã rút bỏ hình thức.

Bút pháp của Hoàng Xuân Sơn trong Hơi Thu như một “Càn Khôn Đại Nã Di Tâm Pháp” trong võ hiệp Kim Dung: người làm thơ không tấn, không thoái, mà lặng lẽ thu lực vào con chữ để ngôn ngữ bùng nổ trong tâm thức độc giả.

Đi về hết một trung tây
Chợt nghe đông bắc đã gầy dáng thu
Áo lá xanh
Chưa bám mù
Đợi chờ một chuyến sương du muối vàng

Tuy không nói rõ, tôi hình dung tác giả cư ngụ Đông Bắc vừa hoàn tất một chuyến chu du qua miền Trung Tây vào khoảng tháng 10, cuối hạ–đầu thu. Trung Tây Hoa Kỳ tháng mười còn vương dấu vết mùa hạ: cánh đồng lúa mì chưa gặt, nắng trườn trên mái nhà nông trại. Mưa đã ngớt nhưng đất còn ấm, lá cây chuyển màu chậm. Sự trì hoãn của mùa như nỗi kiên trì của chiếc lá muốn trụ cành, như những ánh mắt, nụ cười của cuộc viễn du miền Trung Tây còn khơi lên trong ký ức.

Phải tôi
Hay mùa lang thang
Tâm tưởng hàn. mặc. gối tàn sao khuya
Giấy xanh
Mỏng dánh
Tờ bìa

Những con chữ hoán vị tia mắt nhìn. Không gian không giữ người lại, ngôn ngữ cũng không giữ hình ảnh lại. Câu thơ rơi từng nhịp lạc, người thơ vừa đi vừa mất dấu. “Phải tôi hay mùa lang thang” – câu hỏi bật ra mà không cần ai trả lời. Cái “tôi” không có mặt cố định, hiện ra bằng sự hoang mang, lẫn vào từng vùng chữ nhòe. Tôi lang thang hay mùa lang thang? Chả có chi là quan trọng; mây/gió cũng lang thang, những tư tưởng cũng lang thang mấy mùa vạn đại, có “lay/lắc” được mảng hồn nào đâu?!

Và đây: “Giấy xanh / mỏng dánh / tờ bìa” – hỡi độc giả, xin thử một lần “hoán vị” tia mắt nhìn; xin chớ đọc Hơi Thu: thử để cho Hơi Thu đọc chính mình. Bạn thấy gì? Một hình ảnh như bìa sách, như bề mặt của trí nhớ đã ngả màu, đã mòn mép. Mọi vật xuất hiện trong tình trạng mong manh. Không ai đứng yên ở vị trí cũ, kể cả người đọc. Mỗi dòng đi qua là một lần dịch chuyển tâm trí, không theo trục kể mà theo trục khí. Tâm tưởng hàn. Mặc. Gối tàn sao khuya.

Ngôn ngữ trong bài không cần biểu diễn; nó tan vào nhịp cảm xúc như một hơi thở rút về sau một chuyến đi xa.

Dường như thi sĩ Hoàng Xuân Sơn cũng không cần biết độc giả có làm được cú “hoán vị” ngoạn mục ấy hay không: “Ta trong trường cửu lạc tin/ Sao tôi biết được/ Em mìn nơi nao”. Những chữ như “mìn” gợi cảm giác sai, nhưng chính cái “sai” kéo người đọc vào điểm lạ của bài thơ. Câu chữ trượt tay, hoặc trượt ý, để lại một khúc rỗng – nơi người đọc bất ngờ bị buộc phải nghe chính sự im lặng của nghĩa. Những lệch pha đó làm bật chiều sâu của một bài thơ không tìm cách làm đúng. Thứ còn lại là hơi, là lực, là một chiều sâu không cần hình tướng. “Mìn” là một từ cố ý sai, hay cố ý đúng? Nếu cố ý đúng, phải chăng nó trao vai cho danh từ diễn hộ một động từ – mìn – như một điểm nổ, một quả mìn bật tung nội tâm?

Không có gì được gọi tên đầy đủ, không ai hiện diện đủ lâu để thành dáng. Người thơ biến mất cùng lúc với mùa; chữ cũng biến mất cùng lúc với nghĩa. Mọi thứ trong bài như đang chuẩn bị rụng xuống. Khi trời “biếng thở màu rơi diệp vàng”, cảnh vật đổi thay – một quá trình giải thể thầm lặng: không than, không tiếc nuối, không tán dương. Tất cả vận hành âm thầm như nội pháp cao tầng của Càn Khôn Đại Nã Di Tâm Pháp: không có ai chứng kiến, ai cũng cảm nhận được.

Đọc bài thơ này, không thể chỉ đọc như một văn bản. Cần lắng lại, bước vào một trạng thái gần với thiền để đừng cố hiểu mà để khí chảy qua mình. Khi ấy, từng dòng chữ thành mạch động, từng nhịp thơ thành tiếng thở. Và mùa thu không nằm trong câu chữ: nó đã đi sâu vào hệ tuần hoàn của người đọc từ lúc nào không rõ. Hơi thu của mùa đi trong hơi thở của bạn. Tóc hoa râm của bạn là Hơi Thu của càn khôn. Tâm bạn cảm nhận vi tế sự vận hành bốn mùa và nhịp điệu tuần hoàn bất tận của vũ trụ.

Bài thơ H Ơ I T H U mang hình vóc một khúc thu buồn (của Càn–Khôn), đồng thời minh họa sinh động cách ngôn ngữ bùng vỡ (Đại Nã), có công năng dời dạt (Di Tâm Pháp) nơi độc giả. Qua hình ảnh mơ hồ, cấu trúc phân mảnh và nhịp điệu đứt gãy, bài thơ cho thấy: sự thật xuất hiện trong những vết nứt, những khoảng trống mà ngôn ngữ không lấp đầy. Mùa thu như một trạng thái nội tâm, như một pha trong hệ tuần hoàn bốn pha.

Cái “thật” ở đây không hiện ra như một sự thật cụ thể; đó là cảm giác thật – một hiện lộ tinh thần. “Đi về hết một trung tây / Chợt nghe đông bắc đã gầy dáng thu”: sự chuyển đổi không gian trở thành chất liệu khơi gợi thời gian và cảm xúc. Mùa thu không cần miêu tả trực tiếp; nó hiện lên qua sự thiếu vắng: lá chưa úa nhưng đã có “dáng thu”, “trời cũng biếng thở màu rơi diệp vàng”. Ngôn ngữ mở thế giới bằng gợi hơn là tả: nơi chân lý xảy ra không qua khẳng định, mà qua sự xuất hiện của sự vật trong tính khả thể của chúng.

Di Tâm Pháp trong Hơi Thu là cảm thức lưu đày ngay trong lời nói.

Cả chủ thể lẫn lời thơ ở trạng thái bị dời chỗ: “Phải tôi / Hay mùa lang thang” – sự dời chỗ không chỉ là không gian, mà là bất ổn của bản ngã. Danh xưng “tôi” không chắc chắn. Từ đó, ý nghĩa cũng trượt: “Em mìn nơi nao” – có thể là lỗi gõ (mìn thay vì mình), nhưng lại làm nổi bật vết nứt trong truyền thông. Ngôn ngữ không còn là công cụ chuyển tải nghĩa ổn định; nó trở thành nơi cái nghĩa trôi dạt, vỡ vụn. Và nếu “mìn” không phải lỗi, mà là chất gây nổ, một “đại nã” trong tâm thức – thì Di Tâm trở nên khả dĩ?

Cảm ơn anh Hoàng Xuân Sơn đã tạo ra Hơi Thu như một sân chơi mở cho người đọc. Ở đó, người đọc không chỉ “giải mã” bài thơ, mà còn được mời tham gia hành trình kiến tạo ý nghĩa. Không có một nghĩa duy nhất cho “con phố / đường lao xao người”; đó có thể là ký ức, hoài niệm, hay một hiện thực tha hương nào đó trong mỗi người. Ngôn ngữ thơ mở ra “thế giới khả thể”, nơi người đọc là phần của chân lý đang hiện lộ.

H Ơ I T H U đồng vọng nhận định của Heidegger rằng ngôn ngữ là “ngôi nhà của hữu thể.” Ngôi nhà ấy luôn đầy gió lùa, luôn mở cửa cho cái chưa biết. Bài thơ không nói “sự thật” theo lối truyền thống, và chính vì thế nó mở một chiều kích sâu hơn: sự thật của cảm nghiệm, của khoảng trống, của nỗi mờ nhòe.

Trung Thu – Chớm Đông 2025
Tây Nam bình Đông Bắc.

H Ơ I T H U

Đi về hết một trung tây
Chợt nghe đông bắc đã gầy dáng thu
Áo lá xanh
Chưa bám mù
Đợi chờ một chuyến sương du muối vàng
Phải tôi
Hay mùa lang thang
Tâm tưởng hàn. mặc. gối tàn sao khuya
Giấy xanh
Mỏng dánh
Tờ bìa
Những con chữ hoán vị tia mắt nhìn
Ta trong trường cửu lạc tin
Sao tôi biết được
Em mìn nơi nao
Nơi đâu cũng lạ ảnh bào
Dốc đồi
Con phố
Đường lao xao người
Nơi tôi đất ngụ cũng lười
Trời cũng biếng thở màu rơi diệp vàng

h o à n g x u â n s ơ n
@8octobre25

 
 

Tô Đăng Khoa