Đọc "Không Đề Tháng Tư" của Nguyễn Lương Vỵ

 
 
 

Bài thơ Không Đề Tháng Tư của Nguyễn Lương Vỵ là một bài thơ thâm sâu thấm đậm một nhận thức dung hòa cả đời và đạo về một biến cố lịch sử có ảnh hưởng lớn đối với toàn dân tộc Việt đương đại.
Cấu trúc bài thơ gồm 3 đoạn phơi bày sự cô đọng và sự thăng hoa về nhận thức của thi sĩ về biến cố quan trọng của lịch sử Việt Nam cận đại.

Đoạn 1:
Tháng Tư, 42 năm trước: một thể hệ bỗng như chim lạc bầy, vết thương còn mới toanh, đau nhói: đau tim, buốt óc, oan khốc, khôn khuây là các thi từ được NLV mô tả tâm trạng phổ quát của thế hệ đó:

Biệt xứ ly hương thương ngọn gió
Đau tim buốt óc nhớ lưng mây
Trời quen ma khóc lời oan khốc
Đất lạ quỷ hờn thơ khôn khuây


Nhưng vết thương nào rồi cũng có ngày lành, nước mắt nào đổ ra rồi cũng có ngày cạn khô. Và đêm nay: Ông ngồi đó như tượng chiêm nghiệm lại cuộc đời trong thinh lặng. "Một đống chiêm bao" ùa về nắm tay rủ NLV đi sâu hơn về miền hồi tưởng:

Lệ khô đêm tận ngồi như tượng Một đống chiêm bao đến nắm tay...

Hai câu thơ trên thật hay và các ý, tứ rất mới lạ: "một đống chiêm bao"? Hình ảnh "lệ khô đêm tận ngồi như tượng" cho ta thấy thi sĩ như đang nhập thiền định để "tu chữ". Tâm đã rất quân bình: lệ đã khô, vết thương không còn đau nữa, và Thân cũng bất động như Tượng. Đó là trạng thái định tĩnh của cả Thân và Tâm, điều kiện cần thiết để mở màn cho sự Phơi Bày của Trí Tuệ trong Đoạn 2 và 3.

Đoạn 2:

Khuya tháng Tư nghiêng hết mái đầu
Cuối đời ta như nắng ngàn thâu
Long lanh tinh huyết sôi âm nhạc
Lóng lánh thời kinh dịu nỗi đau
Tình sau chưa dứt lơi đôi nhịp
Ý trước còn vang đọng mấy câu
Lệ khô đêm tận ngồi như miếu
Một đống chiêm bao đến thỉnh cầu...


42 năm, thế hệ chim lạc bầy ngày nào nay đã đi đến cuối đời: "Cuối đời ta như nắng ngàn thâu". Thời gian không còn lại bao lâu, ai nỡ hoang phí nó trong việc ấp ủ, nuôi dưỡng vết thương ngày nào? Bao tinh huyết hãy cho hết cho thi ca, cho âm nhạc, hãy cống hiến hết cho đời khi ta còn có thể, khi ta còn diểm phúc còn được thở ra thờ vô. Đây là lời kinh, thần dược xoa dịu nỗi đau.

Lệ khô đêm tận ngồi như miếu
Một đống chiêm bao đến thỉnh cầu...


Từ "Ngồi như tượng" đến "ngồi như miếu" là một sự thăng hoa. (Vì trong miếu có tượng?) Đền miếu, có thời kinh xoa dịu nổi đau. "Một đống chiêm bao" của đời sống, hôm nay không còn đến rủ rê "người ngồi như tượng' đi chơi trò chơi cút bắt nơi "Miền Hồi Tưởng" nữa, mà chúng đến để "thỉnh cầu" tác giả đi nhập thế cống hiến cái thấy cái nghe của một "bậc ẩn sĩ tu chữ" cho đời!

Đoạn 3:

Khuya tháng Tư thinh lặng uy nghi
Cuối đời ta chẳng được quái gì
Phím gõ lăng nhăng như giẻ rách
Thân già lãng đãng tợ âm ti
Người đi hắt bóng trong tâm cảnh
Kẻ ở in hình giữa loạn ly
Lệ khô đêm tận ngồi như núi
Một đống chiêm bao đến rủ đi...


Đoạn 3 là cao trào của tâm định tỉnh: "thinh lặng uy nghi". Trong cái thinh lặng đó, ba sự giải thoát được chứng ngộ:
1.Vô Sở Đắc: "Cuối đời ta chẳng được quái gì"
2. Vô Chấp: "Phím gõ lăng nhăng như giẻ rách" các thi phẩm được gõ ra lăng nhăng như ghẻ rách.
3. Giải Thoát: "Người đi hắt bóng trong tâm cảnh
Kẻ ở in hình giữa loạn ly"
Người đi, kẻ ở đều không có mặt, có chăng chỉ là nhửng hình, những bóng, hắt trong tâm cảnh hay in hình giữa loạn ly.

Tâm bậc "ẩn sĩ tu chữ" nay đã kiên định như núi, củng một đống chim bao đó đến rước ông đi dấn thân vào đời để cống hiến hết cho nhân gian chút nhãn quan của một người đã suốt 42 năm quan biết bao nhiêu đêm "Lệ khô đêm tận ngồi như núi".

Xin Tri Ân Thi Nhân Ngồi Lau Cổ Độ.

 
 

4/2017

Tô Đăng Khoa